Đền Hỏa Thần xây vào đầu thế kỷ XIX. Thờ: thần Lửa. Xếp hạng Di tích quốc gia (1997) Đây là ngôi đền thờ Hoả Thần duy nhất còn lại tại Việt Nam. Nước ta xưa thờ 2 vị Thần Lửa, trong đó có Quang Hoa Mã Nguyên Súy được thờ tại đền Hỏa Thần
Đền Hỏa Thần xây vào đầu thế kỷ XIX. Thờ: thần Lửa. Xếp hạng: Di tích quốc gia (1997), số 30 phố Hàng Điếu, P. Cửa Đông, Q. Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội.
Từ xa xưa, lửa đã được sử dụng và đóng góp to lớn vào sự
phát triển của loài người. Mặt khác lửa cũng thường gây ra những thảm hoạ
khôn lường. Có câu nói lưu truyền tổng kết và phân hạng bốn yếu tố gây hại
nhiều nhất đến cuộc sống là "Thủy, Hỏa, Đạo, Tặc" (lụt, cháy, trộm,
giặc), trong đó Hỏa được xếp thứ nhì.
Việc cầu mong Thần Hỏa đem lại sự an lạc về tinh thần và đề
cao việc phòng chống hỏa hoạn phản ánh một phần nhu cầu thực tiễn của người Hà
Nội từ xưa đến nay. Hai câu thơ sau của Thái sư Trần Quang Khải đã ca ngợi sự
linh thiêng bền vững của Thần Hỏa trong việc trừ hỏa tai, bảo vệ kinh thành
Thăng Long:
Hỏa tụ tam khu phần bất cập
Phong trần nhất trận phiến nan khuynh
Tạm dịch:
Lửa nổi ba khu không cháy được
Phong trần một trận chẳng hề nghiêng
Ban thờ Phật ở đền Hỏa Thần. Ảnh ©2013 NCCong
Đầu thời Nguyễn, những dãy phố phía tây-bắc hồ Hoàn Kiếm
chủ yếu gồm nhà lá, cho nên hỏa hoạn xảy ra thường xuyên. Sử cũ chép rằng vào
đầu năm 1828 có vụ cháy 200 nhà, giữa năm lại cháy 1420 căn nhà thuộc 27 phường.
Năm 1837, khu này cháy thêm 1400 ngôi nhà nữa. Sau đó dân sở tại đã lập một
ngôi đền thờ Hỏa thần để cầu xin Thần Lửa không gây hoạ. Tuy nhiên đến cuối
thập niên 1880 vẫn thường bị cháy rất nhiều.
Có lẽ đây là ngôi đền thờ Hoả Thần duy nhất còn lại tại
Việt Nam. Nước ta xưa thờ 2 vị Thần Lửa, trong đó có Quang Hoa Mã Nguyên
Súy được thờ tại đền Hỏa Thần. Theo truyền thuyết, Nguyên Súy nghe thuyết pháp
tụng kinh nhiều và trở thành môn đệ nhà Phật. Vốn tính “Hỏa” nên Ngài không
giữ nghiêm giới luật, phải xuống trần đầu thai vào nhà họ Phùng, Khi đắc đạo được
về trời làm môn đệ của Ngọc Hoàng Thượng Đế, chuyên việc trừ hỏa tai.
Ban thờ Mẫu trong đền Hỏa Thần. Ảnh ©2013 NCCong
Đền Hỏa Thần được xây dựng từ năm Minh Mệnh thứ 19 (1838), vị
trí ở ngoài Cửa Đông thành Hà Nội, lúc đầu chỉ làm bằng tranh nứa sơ sài. Năm
Thiệu Trị thứ nhất (1841), đền được trùng tu với nguyên vật liệu bền vững, quy
mô rộng rãi hơn. Năm 1848 lại xây thêm tòa phương đình và nhà tiền tế. Con phố
có ngôi đền vì thế cũng gọi là phố Nhà Hỏa.
Kiến trúc
Di tích còn lại cho đến ngày nay được bảo toàn chủ yếu ở phần
trong, phần bên ngoài bị thu nhỏ và che khuất gần hết, chỉ mở một lối đi hẹp ra
phố Hàng Điếu. Du khách vào thăm qua lối này trước tiên sẽ thấy một đài tưởng
niệm liệt sĩ, bên tay trái mới là khu vực thờ Hỏa Thần.
So với các di tích khác trong khu vực phố cổ Hà Nội, đền Hoả
Thần có quy mô khá lớn trên diện tích gần 500m². Đền xây theo kiểu chữ “Công”,
phần chạm khắc được tập trung nhiều nhất ở phương đình.
Ban thờ Hỏa Thần. Ảnh ©2015 NCCong
Tiền tế là một nếp nhà ngang ba gian, xây gạch kiểu tường hồi
bít đốc tai ngai, mái phủ tôn giả ngói mũi hài cổ. Đầu hai tường xây trụ biểu
cao, đặt tượng nghê. Bộ khung đỡ mái bằng gỗ với bốn bộ vì làm đơn giản kiểu vì
kèo quá giang. Các kết cấu gỗ trong bộ khung nhà được bào trơn, bào soi tạo ra
sự nhẹ nhàng cho kiến trúc. Hai đầu tường hồi gắn hai tấm bia đá ghi lại việc
xây dựng và trùng tu sửa chữa di tích. Trên cửa ra vào treo bức hoành phi “Hỏa
Thần Từ”, được làm vào tháng Trọng Xuân năm Giáp Tý, đời vua Tự Đức (tức tháng
2 năm 1864).
Các con rường được chạm nổi văn mây lá lật, mỗi đấu kê đều
trang trí cánh sen, mỗi đầu dư đều thể hiện hình đầu rồng. Các bức ván trong
giá chiêng chạm nổi đề tài chim phượng trong tư thế đang bay. Bốn bức tượng
nghê dưới câu đầu được thể hiện giống nhau với hình thức cách điệu cao, rất gần
gũi với các tượng nghê trên phương đình của đền Bạch Mã và đình Thanh Hà thuộc
bên phường Hàng Buồm.
Tượng Thiên Lý Nhãn ở bên phải Hỏa Thần
Mặc dù đã qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo nhưng nhìn chung
nơi đây vẫn còn giữ được đặc trưng của phong cách kiến trúc, mỹ thuật đời Nguyễn
ở nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, có sự kế thừa của các thế kỷ trước.
Di vật
Tư tưởng và giáo lý của nhà Phật đã được kết hợp hài hoá với
tín ngưỡng dân gian bản địa trong tinh thần “hộ quốc—an dân”, do vậy cấu trúc
xây dựng cũng như bài trí ban thờ kiểu “Tiền Phật, Hậu Thánh Thần” là cấu trúc
phổ biến trong chùa cũng như đền, miếu ở miền Bắc nước ta.
Cách bố trí thờ phụng trong đền Hỏa Thần như sau: gian trong
cùng của toà hậu cung có ban thờ với tượng Thần Hỏa ở giữa hai pho tượng các thị
giả Thiên Lý Nhãn (nhìn thấy khắp nơi) và Thuần Phong Nhĩ (nghe thấu mọi điều).
Tiếp theo, ở phía trong của toà phương đình là ban thờ Tam toà Thánh Mẫu và ngũ
vị Tôn Ông…. Gian chính giữa của phương đình có Ban thờ Tam Thế, Phật A Di Đà,
Phật Di Lặc, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát.
Tượng Thuần Phong Nhĩ ở bên trái Hỏa Thần
Hai bên chính điện có đôi câu đối thể hiện tư tưởng của Phật
giáo Việt Nam:
“Pháp hiện ngũ thông, hách trạc linh thanh đằng Bắc địa
Đạo thành tam muội, ân ba đức trạch phổ Nam Thiên”
Tạm dịch:
“Phật pháp thần thông, tắm tưới muôn nơi tràn đất Bắc
Đạo thành chính quả,
ân đức sâu dầy khắp trời Nam”.