Đình Yên Mỹ, xã Dương Quang là tên gọi theo địa danh làng, còn có tên gọi là đình làng Đầu (theo tên Nôm của làng), thờ phụng thành hoàng làng là Quảng Độ Đại vương, người có nhiều công lao, ân đức đối với nhân dân địa phương.
Theo các nguồn tư liệu hiện còn thì đình Yên Mỹ thờ thành
hoàng làng là Quảng Độ Đại vương, người có nhiều công lao, ân đức đối với nhân
dân địa phương. Sự tích và lai lịch của thần được tóm lược như sau: “Ngài sinh
ngày 13 tháng 3 năm Nhâm Dần và hoá ngày 12 tháng 10 thần là người có công dạy
dân văn tự, lễ nghĩa nên thời nhà Hán phong cho ngài là Liệt Hầu Công.
Sau đó ngài đến trại Thuần Khang (tức Yên Mỹ ngày nay) thấy
nơi đây đất đẹp, sơn thủy hữu tình nên ngài ở đây mở trường dạy học được một
năm, sau có giặc làm loạn, vua phong cho ngài làm Bản Châu Thái Thú để đi bình
giặc.
Lúc đó ngài chọn 35 trai tráng tại trại Thuần Khang làm gia
thần thủ túc, viết hịch đưa đến các quận, phủ. Chỉ trong một ngày khiến quân phản
loạn phải lui. Khải hoàn trở về, ngài mổ lợn, bò khao quân lính và tế thiên địa,
bái yết thành hoàng bản trại, dạy dân lấy đức vọng, dân thấy vậy bèn xin ngài lấy
chỗ ngài dạy học xây đình thờ.
Đêm ấy, ngài nằm mộng thấy người con gái báo mộng đi từ phía
đằng Bắc bản trại xưng là thần nữ Hoàng Nga thờ ở miếu báo cho ngài biết quân
nhà Hán sắp đến vây đức thần bản trại rồi biến mất. Tỉnh dậy đi đến nơi quả
nhiên thấy quân Hán đang vây bản trại thật.
Ngài vào trong gọi quân lính đến và nói rằng “Lòng người đều
giúp ta, quân tướng hãy cố sức đánh quân nhà Hán” chỉ một trận đã thắng được
quân giặc, sau đó ngài cưỡi ngựa về châu- phủ và bảo gia thần trại Thuần Mỹ rằng
“ ở làng có thần nữ rất thiêng, ngày sau có trọng mạnh gì thì phải phụng nghênh
thần nữ về cùng phối hưởng”.
Mấy ngày sau thì ngài hoá, nhân dân sợ hãi bèn làm biểu dâng
vua, vua ban sắc cho thần làm phúc thần, cho dân phủ lập miếu thờ”. Trải qua
các thời đại phong kiến, thần đều được các triều đình ban tặng sắc phong để biểu
dương công tích.
Theo các cụ trong làng kể lại thì đình được khởi dựng từ thời
Lê và được trùng tu nhiều lần vào thời Nguyễn. Đình Yên Mỹ tọa lạc ở giữa khu
trung tâm cư trú của làng có quy mô kiến trúc khang trang trong một khuôn viên
khá rộng, thoáng.
Xưa kia đình gồm nhiều công trình kiến trúc khác nhau tạo
thành một tổng thể kiến trúc khép kín, hoàn chỉnh theo lối kiến trúc “chữ công”
gồm tam quan, sân đình Thượng, đình Hạ, toà ống muống nối giữa đình Thượng và
đình Hạ, xung quanh có tường bao và ao đình.
Song có nhiều nguyên nhân mà ngôi đình Hạ không còn. Kiến
trúc của đình Yên Mỹ ngày nay chính là đình Thượng bao gồm: tam quan ngoài, tam
quan trong, sân, phương đình, đại đình và hậu cung.
Tam quan ngoài xây ba cổng, cổng chính lớn hơn hai cổng bên
dạng chồng diêm hai tầng mái, tầng mái trên xây gác chuông chồng diêm hai tầng
tám mái giả ngói ống, các góc mái có các đầu đao cong lên phía trên. Chính giữa
bờ nóc của lớp mái trên đắp nổi hình mặt trời, hai bên là hai đầu kìm, phía trước
trổ ba cửa.
Phần ngăn giữa mái trên và mái dưới đắp nổi hình rồng chầu mặt
trời, dưới đắp ba chữ Hán “An Mỹ môn”, hai bên cổng hai trụ biểu cao, đỉnh trụ
đắp hình bông sen, dưới là các ô lồng đèn trang trí tứ quý, thân trụ đắp các
đôi câu đối bằng chữ Hán.
Hai cổng bên kiểu mái bằng, hai trụ biểu hai bên đắp hình bốn
chim phượng cụm đuôi vào nhau tạo thành hình trái giành cách điệu, các ô lồng
đèn bên dưới để trơn không trang trí, thân các trụ biểu cũng đắp các câu đối bằng
chữ Hán.
Tam quan trong cũng xây ba cổng, cổng chính có hai trụ biểu,
đỉnh trụ đắp hai nghê chầu vào nhau, các ô lồng đèn bên dưới để trơn, thân trụ
cũng đắp câu đối. Hai cổng phụ xây dạng chồng diêm hai tầng tám mái, phần phía
dưới mái viết chữ Hán.
Hai bên cổng phụ cũng xây hai trụ biểu trang trí và bố cục
giống như hai trụ biểu ở cổng chính. Nối giữa cổng chính và cổng phụ của tam
quan trong là các bức tường đắp nổi hai con voi chầu vào nhau, dưới là các hoa
lá…
Phương đình là bộ phận kiến trúc nhỏ theo dạng chồng diêm
hai tầng tám mái, mái lợp ngói ta, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh, chính giữa bờ nóc
trang trí hình rồng chầu mặt trời, tám đầu đao đắp các đầu kìm uốn cong, lòng
nhà hẹp để trống xung quanh tạo sự thoáng đãng cho kiến trúc.
Đại đình được xây cao hơn so với xung quanh, các bậc tam cấp
được bó vỉa gạch. Nhà gồm ba gian hai chái kiểu bốn mái với các đầu đao cong tạo
thành hình rồng, lá cách điệu, kiểu mái làm tăng thêm sự quang, thoáng để tạo cảm
giác nhẹ nhàng bay bổng cho toàn bộ khối kiến trúc, phía trước trổ ba cửa bức
bàn, cửa chính làm dạng panô, hai cửa bên theo dạng ván bưng đóng kín, lòng nhà
làm dạng hình thuyền dùng làm nơi tế lễ, các gian bên được tôn nền cao hơn làm
nơi hội họp việc làng.
Mái đình lợp ngói di, bờ nóc, bờ dải đắp kiểu bờ đinh không
trang trí, chính giữa bờ nóc đắp nổi hình lưỡng long chầu nguyệt, bốn góc mái đắp
các đầu đao cong, phía trước xây các bậc tam cấp bó gạch, nền nhà lát gạch Bát
Tràng.
Hai chái nhà đại đình làm hệ thống kẻ chuyền trụ trốn để đỡ
mái hồi. Trên thượng lương đại đình có ghi dòng chữ “Hoàng triều Thành Thái ngũ
niên trùng tu đổng vũ quý tỵ trọng xuân cát nhật thánh trụ thượng lương”.
Hậu cung được phục dựng lại năm 1995 gồm một gian, hai chái
và theo kiểu tường hồi bít đốc, mái đổ bê tông, bộ khung là các vì bằng bê tông
làm dạng giả vì gỗ, không trang trí.
Các công trình kiến trúc tuy mới được khôi phục lại trong những
năm gần đây nhưng vẫn mang những nét đặc trưng của kiến trúc cổ truyền thống với
cách bố cục đăng đối, hài hòa cùng cảnh quan môi trường xung quanh.
Bên cạnh đó, ta còn gặp các mảng trang trí trên các di vật của
đình như: kiệu, long ngai, bộ bát bửu, y môn, cửa võng, văn bia, chuông…với
hình thức chạm nổi các đề tài tứ linh, tứ quý…tất cả đều được sơn son thếp vàng
nhằm làm tăng thêm vẻ uy nghiêm cho di tích.
Hiện nay trong di tích còn bảo lưu được nhiều mảng chạm khắc
đẹp mang những nét đặc trưng của phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Bộ di vật đa
dạng, phong phú gồm nhiều chủng loại như: cửa võng, hoành phi, câu đối, ngai thờ,
hương án, đỉnh đồng, đôi hạc đồng… mang đặc trưng của nghệ thuật chạm khắc truyền
thống.
Sự hiện diện của các di vật trong di tích đã làm tăng thêm
giá trị văn hóa, lịch sử và nghệ thuật cho di tích góp phần không nhỏ trong việc
làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hóa của dân tộc.
Hàng năm, đến ngày 13 tháng 3 âm lịch, dân làng Yên Mỹ tổ chức
lễ hội để tưởng nhớ công lao, ân đức của vị thành hoàng làng. Hội làng được tổ
chức vào ba ngày 12,13,14 tháng 3 âm lịch. Trong ba ngày tế lễ thánh, rước long
đình, bát bửu… từ đình làng ra miếu thờ Hoàng Nga công chúa, rước sang đình
làng Khoai, đình Liễu Khê rồi lại rước về. Sau phần lễ là phần hội với nhiều
trò chơi dân gian truyền thống.
Với những giá trị về mặt văn hóa, khoa học, lịch sử và kiến
trúc, đình Yên Mỹ đã được Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội xếp hạng di tích lịch
sử kiến trúc năm 2007.