• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
Văn hóaGiá trị lịch sử
  • UKEnglish

Giá trị lịch sử

Chùa Phán Thú - ấn tượng lễ hội chùa quê

Khu chùa Thú nằm ở sườn núi Thú thuộc thôn Cầu Cần, xã Việt Lập, huyện Tân Yên, Bắc Giang. Nguyên trước đây chùa Thú thuộc xã Tuy Lộc Sơn, tổng Tuy Lộc Sơn, huyện Yên Thế, phủ Lạng Giang.

Theo cây hương đá trước cửa chùa “Nhất đạo sỹ hưng công thiên đài Phán Thú tự phụng phật” niên hiệu Vĩnh Thịnh thời Lê (1075-1715) thì ngôi chùa này có tên chữ là “Phán Thú tự” . Toàn bộ khu chùa có các công trình: Tiền đường, Tam bảo, Thái bảo từ các phán thú từ cung sân vườn rộng rãi trong một tổng thể thống nhất.

 

Chùa nằm trên sườn bằng phẳng của một dải đồi phát ra từ núi chùa. Cũng có người gọi núi này là núi Phượng Hoàng- Thế núi khá lớn, có nhiều mạch núi nhỏ phát ra bao bọc lây khu núi chùa Phán Thú.

Đây là khu núi đất, sỏi đá lẫn với đất khô vằn bạc màu. Núi này đang được cải tạo thành rừng đồi trồng cây ăn quả và cây lấy gỗ. Đây cũng là quả núi nằm bên núi Dành bên bờ sông Thương. Do đó tuy núi ít cây nhưng cảnh sắc vẫn có cái cảnh hữu tình của miền đất trung du Yên Thế.

Lên tới chùa Thú có thể bao quát gần hết các làng xóm của xã Việt Lập. Trước chùa là làng Nội, thôn Cầu Cần và các làng của xã Cao Thượng. Bên phải chùa là mạch núi chùa phát ra bao lấy cánh phải núi chùa.

Bên trái cũng có mạch núi ôm lấy núi nhưng vẫn có thể thấy rõ các làng Ngò, làng Um, làng Khoát. Nếu leo lên núi ở phía sau chùa thì có thể thấy hết phía tây núi Dành với các làng Hậu, Lãn Tranh và dòng sông Thương. Do ở vị thế như vậy nên cảnh quan chùa Thú rất thuận lợi cho việc mở hội và tham quan vãng cảnh.

Trước đây ngôi chùa Thú được đặt ở nơi không có cư dân, do đó cảnh chùa rất u tịch thanh vắng. Gần đây cư dân làng Um, làng Khoát, Cầu Cần... ra cư trú đông dần lên đến nay ven các chân đồi núi cũng có chừng hai chục nóc nhà.

Các hộ gia đình ấy sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng và phát triển kinh tế vườn đồi. Vì thế trên đất các hộ cư trú, cây cối được trồng và chăm sóc tươi tốt, tạo cảnh quan môi trường sạch đẹp cho núi Chùa.

Chùa Thú làm theo kiểu chữ đinh. Phía trước là toà Tiền đường năm gian. Phía sau là toà Tam bảo ba gian nối liền với tiền đường. Kết cấu kiến trúc của chùa theo lối kẻ truyền, không chạm khắc cầu kỳ.

Cả hai toà nhà này đều được bày tượng phật. Nhìn chung các tượng phật ở chùa Thú đều là các tác phẩm nghệ thuật đẹp. Duy có điều lạ là: Ở bên hồi trong chùa, có tượng quan sơn thần và một con ngựa Sơn son. Trong khu vực chùa có nhiều bia đá, bảng gỗ khắc chữ nho cho biết quá trình xây dựng chùa của con người ở nơi đây. Đó là những nét riêng để mỗi người tới chùa Thú được chiêm ngường. Hội chùa Thú trước đây do 21 thôn cùng tham gia tổ chức, đó là các thôn Bãi Giã, Bờ Gàn, Cầu Cát, Cầu Cần Con Qui làng. Đồng Cựu, Đồng Lãi, Đồng Lâm, Đồng Lõm, Đồng Ve, Dốc Gia, làng Um, làng Đông, làng Khoát, làng Nguyền, Ngò, làng Bái, Mả Đình, Mả Ngồi, núi Hương. Trong đó 4 làng: Um. Khoát, Nguyễn, Ngò là chính.

Hội chùa Thú được mở ra vào ngày 21 tháng giêng và ngày 19 tháng ba âm lịch hàng năm.

Mỗi năm chùa có hai lần hội. Hội xuân vào ngày 21 tháng 1 âm lịch và hội cuối xuân vào ngày 19 tháng 3 âm lịch. Trong ngày hội 21 tháng giêng, nhân dân các làng các xã lân cận từ các ngả kéo về làm lễ dâng hương cúng Phật cúng quan Phán Thú và quan Thái Bảo (triều Lê).

Lễ dâng hương của các đoàn chủ yếu là lễ chay, hoa quả, đèn hương... Các bà vãi, các đoàn đi quy của các bản tự thành tâm dâng lễ, tụng kinh, cầu tài, cầu lộc, cầu bình yên cho gia đình, xã hội.

Trước đây trong hội chùa Thú có tục đua ngựa, nay không  còn. Sách Địa chí Tản Yên chép rằng: “Đua ngựa diễn ra vào mùa xuân, dân làng vào đám mở hội. Các cuộc đua coi là sân quần ngựa, nằm trên khoảng đất rộng trước đình Lý Cốt (Phuc Son), chùa Thú (Việt Lập), xóm Khủa (Tân Trung). 

Sân quần ngựa là một đường rộng chạy quanh một quả đồi, trên đường đua đặt một chướng ngại vật là cầu tre  ngang cao bằng đầu ngựa. Sắp vào cuộc thi, ông Cai tiến ra điểm xuất phát có đặt hương án và đầm cờ. Ông thắp hương làm lễ, tuyên bố lý do rồi nổi trống đốt pháo do 2 kỵ sỹ điều khiển, áo quần nai nịt gọn gàng, đầu chít khăn, ngang sườn thắt bao. Pháo nổ vừa xong, hai chàng kỵ mã thúc ngựa lao vào trường đua. Đến chỗ vật chắn (gần đích) người dự thi cúi rạp mình thúc ngựa vượt qua chướng ngại vật. Ai nhanh hơn lại không làm rơi vật chắn là thắng cuộc.

Tiếng đồn chùa Thú vui thay

Bên kia Hương, Hậu bên đây Cầu Cần

Có đường quần ngựa vui xuân

Thi diều, đốt pháo thôn dân tưng bừng.

Hội thi diều tiêu biểu nhất trong vùng cũng đã từng diễn tại chùa Thú. Mùa xuân mở hội thi hai loại diều. Diều loại có sáo và diều loại nhỏ không có sáo. Ông cai đám cầm đầu bên chấm thi và điều hành cuộc thi.

Từng nhóm ba diều vào xới. Mỗi diều có một người đâm (phóng) diều và một người ra dây. Sau khi cai đám tuyên bố lý do, pháo nổ dứt, các diều vun vút lao lên. Loại diều có sáo phải đạt ba tiêu chuẩn: Diều to, lên cao và lên thẳng, không chao đảo, sáo kêu đều và hay thi được giải theo thứ tự nhất, nhì, ba. Hội thả diều rất đông người dự và cổ vũ.

Ngày 21/3 âm lịch năm 1994 hội thi diều lại được mở tại chùa Thú”.  Đối chiếu với ngày hội lệ ghi trong “Nguyên môn bi ký” ở chùa Thú thì ngày hội 21/3 /1994 có thể chênh với ngày hội 9/3 âm lịch hàng năm ở chùa này.

Tuy thế việc đó cũng không ảnh hưởng gì tới hội thi diều vì thời tiết cuối xuân sang hè lúc này rất thuận lợi cho việc thả diều. Thả diều hay chơi diều là một thú vui của mọi người dân ở các làng quê Bắc Giang, song chơi diều có sới như ở chùa Thú thì ít nơi có được.

Để có được cánh diều vào cuộc thi, người chơi phải bỏ ra rất nhiều công phu làm diều, làm sáo, làm dây diều. Cánh diều ở nhiều cỡ. Loại to sải cánh từ lm2 đến lm5. Khung diều phải chọn tre nuột, đốt dài chẻ ra, vót đòng đòng đều nhau rồi buộc vào cái diều cân đối, không được xiên lệch.

Khi néo dây giữa cánh diều cũng phải cho hai đầu cánh cân đề để khi dán giấy có chỗ chứa gió đẩy diều bay lên. Chỉ xê dịch đôi chút thì diều sẽ thành diều cánh bầu hay cánh cắt Nế thành diều cánh bầu thì diều lèn đều không chao đảo lên hết tầm gió dưới thì diều sẽ đậu im trên không. Nếu cái diều ngắn thì thành diều cánh cắt khi đâm sẽ lao vút lên cao đòi dây ngay, nếu không kịp thả dây, diều sẽ chao đảo giật dây dử bị lộn lèo rồi bổ xuống đất.

Diều xưa lam khung xong thì dán giấy bản. Giấy bản khổ to thì đở phải can nối; nhưng loại giấy đó khó kiếm, khó tìm. Khi dán diều phải dùng loại hồ tốt, quấn kv. Những người cẩn thận, kỹ tính thì trước đó đi lấy nhựa sung, nhựa đa, nhựa thông... rồi đem về luyện thành keo dán mưa gió khó lòng làm bong được giấy. Diều được can dán xong, lại phải lấy nước củ nâu, quả cậy quét bôi lên mặt giấy để sương gió mưa nắng không làm rách được giấy.

Dán xong diều lại phải dán đuôi. Đuôi nhỏ thì diều nặng chúi đầu; đuôi to thì diều nghênh. Do đó việc làm đuôi cho đúng để diều đậu là phải có kinh nghiệm. Diều đeo sáo không cứ to nhỏ. Diều to thì sáo to, diều nhỏ thì sáo nhỏ.

Có diều đeo hai sáo, có diều đeo một sáo. Sáo diều không phải ai cũng biết làm. Ai không biết làm sáo thì chơi diều không có sáo. Không sáo thì làm ve cũng được. Ve là loại lạt giang vót mỏng buộc căng cánh cung, gắn vào diều, khi diều lên gió thổi ve phát tiếng kêu, âm thanh ve ve không âm sáo.

Sáo diều là loại nhạc cụ tự phát âm thanh khi có gió thổi vào lỗ sáo. Muốn có sáo diều, người chơi diều phải chọn ống tre ống nứa làm thân sáo. Thân sáo to nhỏ tuỳ thuộc vào diều của chủ diều. Ống tre làm thân sáo phải bỏ hết phần cật ngoài. Sau đó dùi lỗ chắn que ngang chia sáo thành hai phần.

Chỗ chắn ngang phải dùng giấy quyện nhựa bịt kin chắc chắn. Miệng sáo làm bằng mắt gạo già, to. Có mắt gạo rồi thì khoét miệng sáo. Cái khó nhất của việc làm sáo diều chính là kỹ thuật khoét miệng. Đây là chỗ gió vào, gió ra cho âm thanh tạo nên, trong hay đục, êm hay không êm cũng ở miệng sáo cả.

Khi sáo làm xong thì gắn gá vào diều. Sáo đặt ở đầu diều trông rất hiên ngang, khi có gió thổi, diều được đâm lên, tiếng sáo “đu... đu” phát ra tức khắc. Tiếng sáo diều lên cao thanh bình, khúc nhạc đồng quê chính là như thế.

Chơi diều phải biết chọn hay làm dây. Dây có dây gai, dây tre. Dây gai ít có loại to nên chỉ chơi diều nhỏ. Nếu là diều to phải có dây đay vỏng hoặc dây tre. Mua được dây đay võng dài rất khó, mà dùng không được mấy vụ. Cho nên người sành choi diều thường làm dây tre. Dây tre phải có loại tre cái dóng dài và nuột. Loại tre bánh tẻ, chẻ ra thành từng sợi, cả cày tre.

Loại dây này không phải dây chẻ nghiêng lẫn cả cật với ruột, mà chỉ lấy cật. Mặt cật làm dây rộng độ 4 ly, 5 Khi lây cật ra phải vót các cạnh cho dẹt hai đầu. Khi đã đủ dây (vài trăm mét) thì cuộn lại cho vào vạc nước muối luộc kỹ cho dây đủ độ dẻo rồi nối vào với nhau. Loại diều to, diều sáo phải dùng dây này mới không sợ đứt dây diều.

Cuối tháng ba, sắp sang hè, lúc ấy cũng đã có mưa rào trời cũng đã trong sáng, gió nam cũng đã thổi đều làm làm diều sáo các làng quê vi vu trên không rất êm đềm thi vị. Hội diều ở chùa Thú được mở ra trong không khí ấy, rất vui.  Khi diều đã lên, đã đậu mọi người ngồi vui ngắm diều, uống trà uống rượu nói chuyện vị quan Phán Thú với biết bao suy ngẫm ly kỳ hư hư thực thực đầy chất dân gian độc đáo.

Nguồn: Cổng thông tin Tân Yên, Bắc Giang

Ths Nguyễn Thy Ngà

Trở về đầu trang
   Chùa Phán Thú Tân Yên Bắc Giang lễ hội chơi diều sáo
0   Tổng số:

Các tin khác

  • Đình Thanh Sơn, thờ phụng Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát và Châu Lan Đại vương
  • Nghệ thuật kiến trúc đặc sắc của Đình đá Tiên Phong
  • Hà Nam: Đình Quan Phố đón nhận Bằng xếp hạng Di tích cấp quốc gia
  • Đình Quan Phố và những nét kiến trúc nghệ thuật độc đáo
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật
  • Di tích đền phủ Ninh Xá ở Nam Định nơi lưu giữ 28 đạo sắc phong
  • Đình Nghĩa Chỉ, Tiên Du, thờ phụng Phùng Hưng và hai vị thủy thần
  • Đình, nghè Mai Động, thờ phụng Đô úy Tam Trinh triều Nhị vua Hai Bà Trưng
  • Đình Tây Đằng – Bảo tàng nghệ thuật kiến trúc thế kỷ 16
  • Di tích phòng tuyến sông Như Nguyệt - Địa danh gắn với chiến thắng lịch sử chống quân Tống
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Long An phát triển du lịch qua di tích lịch sử - văn hóa

    165
  • Quảng Nam: Tây Giang hướng đến phát triển du lịch xanh

    121
  • Hải Dương: Phường rối nước Thanh Hải được công nhận là điểm du lịch

    118
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật

    113
  • Cung đường mới - động lực lớn cho phát triển du lịch hồ Ba Bể (Bắc Kạn)

    107

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2025 Trang thông tin du lịch