• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
Văn hóaGiá trị lịch sử
  • UKEnglish

Giá trị lịch sử

Đền Lăng Sương thờ phụng Thánh Mẫu Đinh Thị Đen và gia đình Tản Viên Sơn Thánh

Đền Lăng Sương thuộc thôn Lăng Sương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ, phụng thờ cả Thánh Mẫu Đinh Thị Đen và gia đình Thánh Tản Viên, một trong “Tứ bất tử” của Việt Nam. Vị trí của ngôi đền hiện nay cũng là nơi Tản Viên Sơn Thánh chào đời.

Không gian cổ kính giữa vùng đất sơn thuỷ hữu tình, nơi lưu giữ huyền thoại về Đức Thánh Tản Viên Sơn, gắn với tín ngưỡng thờ “Tứ bất tử” của dân tộc Việt Nam. Ngôi đền là điểm nhấn tâm linh trên vùng Đất Tổ Phú Thọ.

Lăng Sương còn là địa danh sinh ra mẹ Âu Cơ và cũng là nơi Lạc Long Quân và Âu Cơ gặp nhau nên duyên vợ chồng sinh bọc trăm trứng, nở trăm con - nguồn gốc của dân tộc Việt.

Thánh Mẫu Âu Cơ được coi là Tổ Mẫu - Mẹ huyền thoại của tất cả dân tộc Việt Nam. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Lăng Sương hòa cùng với tín ngưỡng thờ Mẫu chung của người Việt như: Mẹ Âu Cơ, Mẹ Đất, Mẹ Nước…Vì vậy, Mẫu được thờ tự ở vị trí rất trang trọng trong đền Lăng Sương.

Khách hành hương đến lễn đều cảm nhận được vẻ linh thiêng, trầm mặc và khi nhìn vào Thánh Mẫu đều thấy lòng mình như ấm lại, thanh thản, nhẹ nhàng.

Những truyền thuyết của đất Lăng Sương

Huyện Thanh Thủy nằm ven sông Đà. Từ tiền sử hai nhóm tộc người Âu Việt và Lạc Việt thường giao chiến để giành nguồn nước này. Người Âu Việt (Tày, Thái cổ) từ mạn Tây Bắc theo sông Đà xuống tấn công vùng canh tác của người Lạc Việt (Việt, Mường cổ) ở vùng Bạch Hạc, Phong Châu và Trung Châu. Người Lạc Việt muốn giữ yên bờ cõi phía dưới phải phòng thủ ở phía trên thượng nguồn sông Đà, mạn Hòa Bình, Thanh Thủy.

Truyền thuyết kể rằng Lạc Long Quân một lần đi xem xét hình sông thế núi để bố phòng chặn đánh giặc cướp đã gặp người con gái xinh đẹp hái dâu ở bãi Trường Sa Trung Lộ, bãi sông lớn kéo dài từ Tu Vũ xuống Trung Nghĩa. Đó là nàng Âu Cơ.

 Lạc Long Quân kết tóc xe duyên với Âu Cơ rồi cùng về đất Bạch Hạc sinh sống. Ở đây Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, nở trăm người con trai. Người con trưởng lên ngôi xưng vương. Đó là Hùng Vương thứ nhất của nước Văn Lang. Bà Âu Cơ đưa 49 người con lên ngàn khai khẩn. Đó là đất Văn Lang huyện Hạ Hòa. Lạc Long Quân đưa 50 người con về khai phá vùng biển.

Cũng ở đất Trung Nghĩa nơi Lạc Long Quân gặp Âu Cơ xưa, gần 700 năm sau xuất sinh Sơn Thánh Tản Viên. Thánh Tản Viên Sơn là con rể vua Hùng thứ 18, gắn liền với truyền thuyết Hùng Vương kén rể tìm hiền tài truyền ngôi báu, dẫn đến cuộc đọ sức quyết liệt giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh.

Theo ngọc phả kể lại, ở thôn Lăng Sương làng Trung Nghĩa xưa có ông Nguyễn Cao Hành kết hôn với vợ là Đinh Thị Đen, người Mường ở Lịch Gia, Mông Hóa, Hòa Bình.

Ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Tỵ, tức năm 304 của thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên bà Đen đã sinh ra người con trai đặt tên Nguyễn Tuấn. Tuấn được người mẹ nuôi tên là Ma Thị Cao Sơn đưa sang núi Tản Viên học thầy là tiên ông trên núi Tản.

Khi thành tài, Thánh đã cùng hai em con chú là Cao Sơn Đại vương, Quý Minh Đại vương ra giúp vua Hùng đánh giặc giữ nước. Nguyễn Tuấn được Vua Hùng gả Ngọc Hoa công chúa. Đức Ngài vừa là anh hùng trong chiến trận mạc, vừa là phúc thần vì đã dạy dân đắp đê chống lũ lụt.

Sơn Thánh Tản Viên là hiển hóa của linh khí núi sông, có sức mạnh vô biên. Tương truyền khi giao chiến với Thủy Tinh, để ngăn lũ lụt, Tản Viên đã dịch chuyển đất đai thành núi Chẹ ở bờ bên kia làng Trung Nghĩa nơi ông ra đời.

Vua Hùng thứ 18 không còn con trai nối dõi. Tản Viên Sơn Thánh khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán để trăm họ được bình yên chấm dứt chiến tranh liên miên nhiều trăm năm giữa hai bộ tộc Lạc Việt và Âu Việt, ra đời nhà nước Âu Lạc mà Cổ Loa là Kinh đô. Nguyễn Tuấn vì có công lớn với dân tộc được tôn là Tản Viên Sơn Thánh.

Người dân Trung Nghĩa kể rằng, cha của Thánh Tản, ông Nguyễn Cao Hành đã di rời phần mộ tổ tiên lên vùng núi Thu Tinh huyện Thanh Sơn. Gia đình ông chuyển lên đó sinh sống. Truyền thuyết ở Thanh Sơn cho biết một lần bà Đinh Thị Đen qua đồng Móng làng Tất Thắng ướm chân vào vết chân khổng lồ trên một hòn đá núi, khi về đầu thai Thánh Tản Viên.

Vì thế, Tản Viên là con của đất trời, có sức mạnh như đá núi. Truyền thuyết về hòn đá bà ướm chân để thụ thai cũng như hòn đá Quỳ ở di tích đền Lăng Sương nói đến tục thờ đá của người Việt vùng cao.

Xa xưa Lăng Sương là một thôn, bản của làng Trung Nghĩa. Sang thời Lê, triều đình quy định các địa bàn cư trú của người thiểu số là động gọi là các động Man (động của người Man) gọi theo cách phiếm chỉ của giới nhà nho phong kiến để phân biệt với các thôn làng của người Kinh.

Người dân vùng cao ở trong các động như: động Lăng Sương, Trung Nghĩa huyện Thanh Thủy, động Trúc Phê, Hưng Hóa, động Khuất Lão, Văn Lang (huyện Tam Nông) động Tiên Du huyện Phù Ninh, động Hoa Khê ở thị xã Phú Thọ. Sau có nhiều dòng người di cư lên Phú Thọ đã khiến cư dân ở các động Man dần chuyển biến văn hóa mà đặt theo họ người Kinh.

Các họ gốc Mường ở Phú Thọ, đặc biệt ở Trung Nghĩa là Nguyễn, Bùi, Đinh, Hà, Cao, Phùng, Quách. Còn gốc Tày là họ Ma. Có người đổi thành họ Mai, họ Mè. Cha mẹ Tản Viên là người Lạc Việt, người Mường. Ngài lại có mẹ nuôi là bà Ma Thị. Bà Ma Thị là người Tày Thái cổ.

Phú Thọ đất Tổ, nước Văn Lang của người Lạc Việt, Việt Mường. Nhưng một bộ phận người Tày họ Ma lại không theo Thục Đế mà về theo vua Hùng. Đến thời Hùng Duệ Vương tức Hùng Vương thứ 18, con cháu họ Ma người Tày còn ở Cẩm Khê, thị xã Phú Thọ và ở cạnh núi Hùng.

Nay di tích còn lại dấu tích thành Mè, chợ Mè hay còn được gọi là thành, chợ của người họ Mè, họ Ma và các tên xóm, bản tên động vẫn được gọi theo ngữ hệ Tày Thái cổ. Tản Viên con bà Đinh Thị Đen, họ Mường nhưng lại có mẹ nuôi họ Ma, họ của người Tày.

Đền Lăng Sương tọa lạc tại thôn Lăng Sương, xã Trung Nghĩa, một xã miền núi tả ngạn sông Đà, có địa hình bán sơn địa, đồi, gò, núi non bao bọc. Đền tọa lạc trên khu đất hướng nhìn ra dòng sông Đà xanh thẳm, lưng tựa vào dải núi trùng điệp, tạo nên phong cảnh tựa sơn đạp thủy. Cách khu đến Lăng Sương khoảng 50 mét về phía Đông Bắc, ngôi mộ của Thánh Mẫu Đinh Thị Đen đã được xây thành lăng tẩm.

Cách khoảng một cây số về phía Đông Nam hữu ngạn sông Đà là dãy núi Ba Vì, nơi có Tản Viên Sơn Thánh và hai người em con chú tọa trấn, sừng sững uy nghiêm bốn mùa mây phủ hình thành một vùng non xanh nước biếc linh thiêng huyền thoại.

Theo Ngọc phả còn lưu giữ, Đền Lăng Sương được xây từ thời An Dương Vương. Đến đời Lê được trùng tu. Năm Thiệu Trị thứ 7 thời Nguyễn (1847) ngôi đền được tu sửa lớn. Năm Tự Đức nguyên niên (1848) khắc bia đá lưu truyền cho hậu thế.

Qua nhiều biến động lịch sử, ngôi đền bị hư hỏng nhiều. Năm 1991, chính quyền và nhân dân địa phương đã tôn tạo đền Lăng Sương trên khu đất rộng với diện tích 3.000 mét vuông, bao gồm các công trình: Nghi môn đền, miếu Hai Cô, giếng Thiên Thanh, nhà bia, nhà võng, tả mạc, hữu mạc và Lăng thánh Mẫu.

Nghi môn Đền có đôi câu đối:

Thiên giáng thánh nhân bình bắc địch

 Địa lưu thần tích hiển Nam bang.

 Dịch nghĩa là:

 Trời sinh thánh dẹp giặc phương Bắc

Đất lưu thần tích hiến trời Nam.

Và câu đối:

Lăng Sương cốt cách ngọc tinh thần

Bả thác long linh giáng hạ trần

Dịch nghĩa là:

Lăng Sương địa thể ngọc tinh thần

Ba vị thần long xuống hạ trần

Câu đối ở ban thờ Tản Viên Sơn Thánh:

Thiên cổ Lăng Sương truyền cố sự

Nhất môn Thanh Thủy hiệp anh linh.

Qua cổng Đền là miếu Hai Cô, được gọi là miếu Nhà Bà, thờ phụng Bạch Tinh Thần nữ, tinh chủ vùng đất cùng hai vị nhiên thần là Đào Hoa và Quế Hoa. Sau miếu, hướng Tây có giếng Thiên Thanh quanh năm đầy nước, nhìn thấy tận đáy.

Tương truyền đây là nơi rồng vàng hạ phàm, thánh Mẫu ra giếng gánh nước về ngồi trên phiến đá tắm gội. Sau đó bà có mang 14 tháng và sinh ra Tản Viên.

Khi Thánh Mẫu chuyển dạ, trong cơn đau vật vã, bà quỳ chân, chống tay xuống phiến đá. Dấu đầu gối và năm ngón tay hằn lên phiến đá đến nay vẫn còn. Vì thế nhân dân địa phương gọi đó là hòn Đá Quỳ và đặt hòn đá ngay bên tang giếng Thiên Thanh.

Cạnh giếng Thiên Thanh là nhà bia được xây theo kiểu kiến trúc nhà 4 mái, trong đặt tấm bia khắc năm Tự Đức nguyên niên (1848) ghi công đức của những người có công tu sửa lại đền.

Trước sân đền là nhà võng. Tương truyền đây là nơi Sơn Thánh Tản Viên lúc còn nhỏ thường được đặt nằm võng. Trong nhà có một chiếc võng phủ vải đỏ, gọi là võng đào. Đặc biệt có 8 cột đá cao 2,1m được xây vào thời Lê. Giữa nhà võng đặt một chậu bằng đá xanh hình vuông, tương truyền là chậu đá để Tản Viên tắm khi còn nhỏ. Trên chậu đá có đặt một bòn đá tương truyền khi Thánh Mẫu sinh Tản Viên xong đã dùng để chèn bụng.

Đền Lăng Sương có kiến trúc mang chất cổ kính, thâm nghiêm. Kiến trúc ngôi đền được xây dựng theo kiểu chữ “công” gồm 3 gian đại bái, 3 gian hậu cung. Cột, vì kèo, kẻ, bẩy đều được tạo tác bằng gỗ tứ thiết. Mái đền lợp ngói vẩy, đỉnh mái đắp nề lưỡng long quán Nhật.

Tòa Đại bái đặt ban thờ Sơn Thánh Tản Viên ở chính điện, hai gian bên là ban và tượng thờ nhị vị tùy tướng giỏi, em kết nghĩa của Đức Thánh Tản Viên là ngài Quý Minh Đại vương, Cao Sơn Đại vương.

Gian Hậu cung có tượng thờ Mẫu Đinh Thị Đen, thân mẫu của Thánh Tản, tượng Đức Thánh Tản Viên, tượng Ngọc Hoa Công Chúa, phu nhân của Sơn Thánh, hai bên là tượng thờ dưỡng mẫu của Thánh Tản Viên là Thánh Mẫu Ma Thị, thánh phụ Nguyễn Cao Hành.

Đền còn lưu giữ các hoành phi, câu đối cổ, bia đá, tảng đá nơi Thánh Mẫu Đinh Thị Đen quỳ sinh Đức Thánh Tản Viên.

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

Ảnh tư liệu: Minh Xuân - Nguyễn Huân/ Đền Miếu Việt/Ảnh Google

Hàng năm đền Lăng Sương mở lễ hội cổ truyền vào 25 tháng 10 âm lịch (là ngày giỗ Mẫu sinh ra Thánh Tản) và rằm tháng giêng - giỗ chính (là ngày sinh Thánh Tản).

Về ngày giỗ Thánh Mẫu có liên quan đến sự tích gò Đống Bò cách đền chính hơn năm trăm mét có một gò đất nổi lên giữa cánh đồng Đầm Đành. Tương truyền hàng năm cứ đến ngày 24 tháng 10 là có một con bò không biết ở đâu tự nhiên về gò đó và nhân dân bắt mổ để tế lễ làm giỗ Đức Thánh Mẫu vào ngày 25 tháng mười hôm sau.

Còn ngày giỗ chính của Đức Thánh Tản thì làng xóm rậm rịch mở hội từ những ngày trong Tết. Nhà nhà, dòng họ, các giáp chuẩn bị cỗ bàn, quần áo, mũ mão cùng nhiều vật dụng cho ngày lễ hội.

Sáng 15 tháng giêng, các giáp rước cỗ ra đền và tập trung thành đoàn rước của xã kéo quân từ Đền ra sông Đà với mục đích là lấy nước sông Đà về làm lễ và đón mẹ nuôi của Thánh Tản bên Ba Vì về dự tiệc sinh Thánh. Tục lấy nước cũng thể hiện sự tôn thờ thần nước của cư dân lúa nước của người Việt xa xưa.

Lễ hội đền Lăng Sương là một trong những lễ hội lớn của vùng núi Tản sông Đà và những di tích thờ Tản Viên Sơn Thánh. Lễ hội là sự kết hợp giữa di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể hiện còn được bảo tồn trên quê hương đất Tổ. Cùng với các di sản văn hóa khác, vùng đất Lăng Sương là mảnh đất chứa đầy huyền thoại, truyền thuyết với các tục hèm như thả diều, tục kiêng gọi tên húy…

Với những giá trị lịch sử và văn hóa tâm linh sâu sắc, đền Lăng Sương đã được Bộ Văn hóa Thông tin ra quyết định số 25/2005/QĐ-BVHTT ngày 12-7-2005 xếp hạng là Di tích lịch sử cấp Quốc gia.

Di tích đền Lăng Sương đã được lập quy hoạch tổng thể nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị của các di sản văn hóa. Xây dựng Lăng Sương thành một điểm tham quan du lịch văn hóa tâm linh phục vụ du khách thập phương và phát triển kinh tế dịch vụ du lịch là hướng đi đúng của huyện Thanh Thủy và điểm đến của du khách thập phương. Xuân Thu

Lễ hội đền Lăng Sương được tổ chức vào rằm tháng Giêng hằng năm, ngày sinh Đức Thánh Tản Viên với những nghi lễ cổ truyền được gìn giữ từ bao đời nay ở vùng Trung Nghĩa. Trải qua thời gian, ngôi đền lưu giữ những giá trị lịch sử, văn hoá, là điểm nhấn tâm linh trên vùng Đất Tổ. Nơi đây gắn với tín ngưỡng thờ cúng “Tứ bất tử” của người Việt, là “địa chỉ đỏ” giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc cho thế hệ hôm nay và mai sau.

Nguồn: Ban Tôn giáo Chính phủ

Trở về đầu trang
   Đền Lăng Sương xã Trung Nghĩa huyện Thanh Thuỷ tỉnh Phú Thọ thờ phụng thánh Mẫu Đinh Thị Đen Tản Viên Sơn Thánh
0   Tổng số:

Các tin khác

  • Đình Thanh Sơn, thờ phụng Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát và Châu Lan Đại vương
  • Nghệ thuật kiến trúc đặc sắc của Đình đá Tiên Phong
  • Hà Nam: Đình Quan Phố đón nhận Bằng xếp hạng Di tích cấp quốc gia
  • Đình Quan Phố và những nét kiến trúc nghệ thuật độc đáo
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật
  • Di tích đền phủ Ninh Xá ở Nam Định nơi lưu giữ 28 đạo sắc phong
  • Đình Nghĩa Chỉ, Tiên Du, thờ phụng Phùng Hưng và hai vị thủy thần
  • Đình, nghè Mai Động, thờ phụng Đô úy Tam Trinh triều Nhị vua Hai Bà Trưng
  • Đình Tây Đằng – Bảo tàng nghệ thuật kiến trúc thế kỷ 16
  • Di tích phòng tuyến sông Như Nguyệt - Địa danh gắn với chiến thắng lịch sử chống quân Tống
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Long An phát triển du lịch qua di tích lịch sử - văn hóa

    165
  • Quảng Nam: Tây Giang hướng đến phát triển du lịch xanh

    121
  • Hải Dương: Phường rối nước Thanh Hải được công nhận là điểm du lịch

    119
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật

    113
  • Cung đường mới - động lực lớn cho phát triển du lịch hồ Ba Bể (Bắc Kạn)

    109

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2025 Trang thông tin du lịch