• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
Văn hóaGiá trị lịch sử
  • UKEnglish

Giá trị lịch sử

Đền Thượng Tiết, nơi lưu dấu của Tiền Ngô Vương và bức tượng thờ tuyệt mỹ

Đền Thượng Tiết, nơi thờ phụng vua Ngô Quyền thuộc thôn Thượng Tiết, xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, Hà Nội. Đền được xây dựng từ lâu, tọa lạc trên môt gò đồi có tên gọi Long Cốt Sơn.

Ngày 29 tháng 9 năm 2014, Hội đồng Ngô Tộc Việt Nam tổ chức cho các thành viên đi thăm đền thờ Ngô Quyền ở thôn Thượng Tiết, xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, Hà Nội. Ông Ngô Vui, Chủ tịch Hội đồng và bốn ủy viên khác gồm: Ngô Quang Xuân, Ngô Văn Hùng, Ngô Hữu Minh, Ngô Văn Xuân cùng đi. Ông Nguyễn Văn Chiến, một nhà nghiên cứu Lịch sử mỹ thuật, từng bỏ nhiều công sức nghiên cứu sâu về Ngô Quyền cùng tham gia đoàn.

Thượng Tiết cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 50 Km. Từ trung tâm thành phố đi Hà Đông, rẽ phải theo quốc lộ số 6, đến Ba La rẽ trái đi Vân Đình theo hướng đi Chùa Hương. Qua Vân Đình, đi tiếp đến thị trấn Tế Tiêu, huyện Mỹ Đức, đến ngã tư rẽ trái theo Đường Đại Đồng, đi tiếp 3 Km thì tới.

Thượng Tiết là một làng vùng quê chiêm trũng, nhân dân sống bằng nghề thuần nông nên đời sống còn nhiều khó khăn. Khi chúng tôi đến đang là mùa gặt, dọc đường làng trải bê tông, nhân dân phơi chật thóc hai bên. Khi vào thăm chùa, sân chùa được phơi kín lúa, dọc hành lang chùa cũng được che chắn dùng để chứa thóc mới phơi. Trên đường đi, chúng tôi phải dừng xe hỏi thăm vài lần mới tìm đến nơi.

 

Đền và Chùa Thượng Tiết nằm chung trong một khuôn viên đất, rộng khoảng hơn một héc ta. Nơi đây có cảnh quan thật đẹp, với vẻ sơ khai mà cổ kính, rộng rãi và thoáng đãng. Bước qua cổng tam quan, lối dẫn vào đền, chùa là con đường lát gạch với hai hàng cau vươn cao, thẳng tắp đứng dọc hai bên.

Quanh khuôn viên là hệ thống cây xanh bóng mát rợp cả một vùng. Trước và sau đền, chùa là những hàng nhãn cổ thụ tán lá vươn rộng, có những cây đường kính thân đến hơn nửa mét. Cách đấy không xa, dãy núi Linh Sơn trải dài như một bức trường thành, che chắn bão lũ và làm chỗ dựa vững chắc cho cả vùng quê.

Đền Thượng Tiết tọa lạc trên một gò đồi có tên gọi là Long Cốt Sơn. Đền được xây dựng từ lâu, gần đây nhân dân địa phương hưng công tôn tạo, trùng tu hai lần vào các năm Tân Tỵ (2001) và Tân Mão (2011). Tuy nhiên đền còn mang vẻ khiêm tốn, chưa được khang trang, các đồ tế tự còn đơn sơ, thiếu thốn, chưa được tương xứng với một ngôi đền thờ vị anh hùng dân tộc

Thượng Tiết cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 50 Km. Từ trung tâm thành phố đi Hà Đông, rẽ phải theo quốc lộ số 6, đến Ba La rẽ trái đi Vân Đình theo hướng đi Chùa Hương. Qua Vân Đình, đi tiếp đến thị trấn Tế Tiêu, huyện Mỹ Đức, đến ngã tư rẽ trái theo Đường Đại Đồng, đi tiếp 3 Km thì tới.

Thượng Tiết là một làng vùng quê chiêm trũng, nhân dân sống bằng nghề thuần nông nên đời sống còn nhiều khó khăn. Khi chúng tôi đến đang là mùa gặt, dọc đường làng trải bê tông, nhân dân phơi chật thóc hai bên. Khi vào thăm chùa, sân chùa được phơi kín lúa, dọc hành lang chùa cũng được che chắn dùng để chứa thóc mới phơi.

Đền và Chùa Thượng Tiết nằm chung trong một khuôn viên đất, rộng khoảng hơn một héc ta. Nơi đây có cảnh quan thật đẹp, với vẻ sơ khai mà cổ kính, rộng rãi và thoáng đãng. Bước qua cổng tam quan, lối dẫn vào đền, chùa là con đường lát gạch với hai hàng cau vươn cao, thẳng tắp đứng dọc hai bên.

Quanh khuôn viên là hệ thống cây xanh bóng mát rợp cả một vùng. Trước và sau đền, chùa là những hàng nhãn cổ thụ tán lá vươn rộng, có những cây đường kính thân đến hơn nửa mét. Cách đấy không xa, dãy núi Linh Sơn trải dài như một bức trường thành, che chắn bão lũ và làm chỗ dựa vững chắc cho cả vùng quê.

 
 
 
 
 

 Đền Thượng Tiết tọa lạc trên một gò đồi có tên gọi là Long Cốt Sơn. Đền được xây dựng từ lâu, gần đây nhân dân địa phương hưng công tôn tạo, trùng tu hai lần vào các năm Tân Tỵ (2001) và Tân Mão (2011). Tuy nhiên đền còn mang vẻ khiêm tốn, chưa được khang trang, các đồ tế tự còn đơn sơ, thiếu thốn, chưa được tương xứng với một ngôi đền thờ vị anh hùng dân tộc.

Đền Thượng Tiết xây dựng từ xa xưa. Theo truyền tụng của địa phương, Ngô Quyền đã hai lần dừng chân qua đây, khi người từ  Đường Lâm vào Châu Ái (bản doanh của Dương Đình Nghệ); và từ Châu Ái ra thành Đại La diệt phản nghịch Kiều Công Tiễn, và đánh giặc Nam Hán. Đây là con đường thượng đạo từ Ái Châu ra thành Đại La, có qua Thượng Tiết bằng đường sông Đáy. Khi qua đây, Ngô Quyền đã chiêu mộ thêm quân sĩ. Với trí dũng mưu lược, Ngô Quyền đã cầm quân đánh bại đại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (cuối năm 938), chấm dứt hơn nghìn năm nạn Bắc thuộc, đem lại nền độc lập tự chủ cho dân tộc.

Ghi nhớ công ơn đức vương Ngô Quyền, nhân dân nơi đây đã lập đền thờ. Hàng năm vào ngày 18 tháng Giêng (Âm lịch)  giỗ đức vua, và hai ngày: 3/ 6, 3/10 ghi nhớ hai lần ngài qua đây, trong vùng lại tổ chức lễ dâng hương lên Ngô Vương Quyền.

Nơi đây là vùng chiêm trũng nên hay bị ngập lụt. Trước kia Đền cổ nằm ở phía ngoài sông Thanh Hà (chảy ra sông Đáy), có năm lụt. nước dâng ngập cả ngôi đền. Vì thế, đền đã di dời vào nơi đây cao ráo.

Thời gian trải dài, qua nhiều thời đại, lại hay ngập lụt, nên các tài liệu, giấy tờ của đền (*) bị hư hỏng, mất mát. Không ai còn nhớ năm tháng xây dựng đền xưa? và năm di dời cũng không nhớ là năm nào? Đền chuyển vào nơi đất cao (xưa gọi là Long Cốt Sơn), trước đấy có mộ tổ họ Vũ, mộ đã di dời, nhưng khối đá đen lớn còn nằm lại, nay vẫn ở sau Hậu cung đền.

Một số hiện vật của đền cổ còn giữ được, trong đó có pho tượng đức vua Ngô Quyền. Ngước đọc dòng chữ Hán khắc trên xà nóc Hậu cung ghi: “Bảo Đại thất niên trùng tu”. Đó là năm 1932  đền được tôn tạo. Đến khoảng năm1950, đền bị bom đạn của thực dân Pháp phá hỏng nhiều chỗ.

Phần Hậu cung và tượng thờ rất may không bị phá. Đến năm 1959 dân làng hưng công dựng lại, nhưng kiến trúc thu hẹp. Gần đây đền lại được hưng công tôn tạo vào các năm1996, 2001 và 2011. Hiện Đền và Chùa Thượng Tiết nằm chung trong một khuôn viên, rộng khoảng hơn một héc ta.

Về nghệ thuật tạo hình, tại Hậu cung đền còn lại pho tượng cổ, chạm gỗ, sơn son thếp vàng theo lối truyền thống thế kỷ XVIII. Đó là tượng Đức Vương Ngô Quyền uy nghiêm, ngự trên ngai Rồng. Gương mặt oai phong, mắt nhìn thẳng. Trên đầu đội Vương miện Bình Thiên, phía trước chạm “mặt trời - mây lửa”, xen giữa là hai vì Tinh Tú cùng tỏa sáng.

 

Vương miện Bình thiên

 

Đăng đối từ hai mé bên là Rồng ngẩng cao đầu chầu vào. Quanh vương miện đều chạm Rồng. Tầng phía trên đỉnh (trước/sau/hai má bên) đều chạm hai lớp chạm đăng đối “Lưỡng Long chầu nhật” tạo sự uy nghi. Nói lên ý nghĩa xưng vương của Ngô Quyền. Hai tay đức vương cầm  nâng “mặt trời - mây lửa trên mình Rồng”. Dáng ngồi đường bệ trên ngai.

Đăng đối hai tay ngai là đôi Rồng dũng mãnh đang ngẩng cao đầu. Bờm rồng 5 dải uốn lượn ra sau theo hình mây đao. Long Bào đức vua mềm mại các nếp y phục, lộng  lẫy với những hình Rồng. Hai chân đi giày, đặt song hành, nhô ra hai góc bệ ngai, có hai đầu Rồng hướng ra hai bên. Tượng “dính” liền bệ ngai. 

Kích thước tượng: Vương miện Bình Thiên (mặt bên) Từ đỉnh Vương miện xuống bục xi măng cao 211 cm. Mặt cao19 cm, ngang 18 cm. Hai lớp Vương miện vua, Lớp trên đỉnh cao   23cm, cạnh 37 cm x 36 cm, dật cấp 33 cm x  28 cm. Lớp dưới ôm sát đầu, cao 23cm, cạnh 17 cm, x18 cm.

Tổng thể từ đỉnh Vương miện xuống cổ áo 60cm. Vai tượng 36 cm, Từ vai xuống đai lưng 43 cm. Từ đầu gối xuống bệ 44 cm. Chiều ngang hai đầu gối 45cm, ngang hai đầu giầy 50 cm. Vật vua  cầm trên tay cao 27cm là“Vòng Mặt trời mây lửa trên đầu Rồng”.

Ngai tượng: Lưng ngai xuống mặt bệ 130cm. Ngang: trên 56 cm, giữa 17 cm, dưới 40 cm. Mặt lưng chạm cảnh “Cá vượt vũ môn, hóa Rồng”, hai bên có Lân chầu, Rùa đội thư đón mừng. Tay ngai 66 cm, nhô đầu Rồng.

Chắn song chạm mỗi bên 3 cái: ngoài 59 cm; giữa 62 cm; trong 64 cm. Bệ ngai: ngang 73 cm x sâu 61 cm x cao 63 cm cách nền bệ xi măng 20cm. Bệ xi măng đặt Tượng và Ngai: Cao 100 cm, dài/rộng 165cm. Gian đặt tượng có 4 Cột: khuôn viên vuông, mỗi cạnh 210 cm. Tương quan tỷ lệ giữa tượng/Ngai và bệ hợp lý.

Điều đặc biệt của pho tượng Đức Vương Ngô Quyền được phát hiện là: Nghệ nhân tạc trọn vẹn cả hai bàn chân đức vua. Sau đó mới tạc đôi giầy lồng vào hai chân, mới hoàn chỉnh tượng đức vua ngồi trên ngai. Tượng và Ngai chạm tinh tế, sơn son thếp vàng rực rỡ.  

Đây là điều trân trọng tâm linh thờ tự, và cũng là điều bí ẩn của nghệ thuật tạc tượng Đức Vua, ở thê kỷ XVIII. Lối làm tượng: tạc chân đầy đủ, sau mới tạc giầy lồng vào  còn thấy ở tượng Ngô Quyền thờ ở Đền Sải, Thôn Hiền Lương, xã An Tiến, huyện Mỹ Đức (cách đền Thượng Tiết không xa). Mặc dầu hai tượng của hai đền khác nhau đều thờ Ngô Quyền.

Ý nghiã: Về nghệ thuật tạo hình: Pho tượng “Đức vương Ngô Quyền” hoàn chỉnh, đẹp, có giá trị nghệ thuật mang phong cách tượng truyền thống thế kỷ XVIII. Sự phát hiện tác phẩm Mỹ thuật cổ này trong kho tàng nghệ thuật Truyền thống để mọi người cùng được biết.

Cổ vật quan trọng và ý nghĩa về nghệ thuật, phong cách và niên đại đã khẳng định sự tồn tại của ngôi đền cổ trong lịch sử Văn hóa đất nước.Trong đền còn một số Cổ vật đồ thờ/Các binh khí (chạm gỗ), Câu đối, Sắc phong (**), Nề ngõa: ngựa… thuộc thời Nguyễn.

Về mặt Lịch sử: di tích đền thờ ghi dấu sự kiện Ngô Quyền đã 2 lần qua đây. Cho ta hình dung về tuyến hành quân của Ngô Quyền từ Châu Ái ra thành Đại La trừ phản tặc Kiều Công Tiễn, và đánh thắng giặc Nam Hán.Điều mà chưa thấy biên chép trong các sách lịch sử. Ta chỉ thấy sự chép lại của nhau của các sử gia, quá ngắn về Ngô Quyền.

Đền Thượng Tiết xây dựng có gốc xa xưa để nhớ sự kiện Ngô Quyền với địa danh này. Nhưng hiện vật thời xưa ấy đã bị mai một. Chỉ biết đền đã di dời. Các mốc niên dại trùng tu đền còn biết là các năm: 1932, thời Bảo Đại, 1959 thời đại Việt Nam dân chủ cộng hòa và gần đây là Cộng hòa XHCN Việt Nam: Các năm 1996 xây dựng kiến trúc cổng; Năm 2001 và 2011 tôn tạo gian Tiền tế, làm Câu đối, Đồ thờ. Hiện trạng đền rất cần được quan tâm hơn nữa của nhà nước để bảo vệ và tôn tạo di  tích, tôn vinh  xứng tầm ngôi đền thờ một vị vua - người anh hùng dân tộc Trung Hưng  đất nước..   

Chú Thích

 (*) Các văn bản sự tích đền thờ Tiền Ngô Vương ở Mỹ Đức được lưu giữ tại Đền rất sơ sài. Được biết các tư liệu di tích còn lưu giữ tại Đền Bách Linh. Vì xưa kia, nơi đây thuộc chung phủ Hoài An, Tổng Trinh Tiết nên toàn bộ Thần phả, các Sắc phong Chỉ dụ tôn thờ của các triều đình Phong kiến cấp, đều đưa về phủ này sao lưu cất giữ.

Đền Bách Linh là trung tâm của phủ xưa, nên các tư liệu của 30 ngôi đền trong vùng hiện nay đều vẫn nằm ở đây. Chúng tôi đã tìm đến đền Bách Linh (ở thôn Dư Xá, xã Hoài Nam, Ứng Hòa) xuất trình giấy tờ, yêu cầu được chụp các tài liệu. Đó là các bản sao chép bằng chữ Hán về đền Thượng Tiết. Lại đến Đền Sải (cùng trong Mỹ Đức) cũng thờ Ngô Quyền, để tìm chụp thêm tư liệu Hán tự /Sắc phong.

Nội dung các tài liệu: Văn bản sự tích /Thần phả/ Sắc phong … được tra cứu/ đọc/dịch ra quốc ngữ - để đối chứng và tiện hiểu biết cho ban di tích nhà đền. Nội dung “Văn bản sự tích” của đền thờ Ngô Quyền ở Mỹ Đức.

Được ghi như sau: (1)-  Nhân vật thờ của đền là: Tiền Ngô Vương, húy Quyền. Ghi rõ đặc điểm, diện mạo, Uy quyền, công lao, uy thế đánh thắng giặc Nam Hán trận Bạch Đằng. Lên ngôi lập đô Cổ Loa. Đền thờ chính của Ngài là thuộc địa danh: “Sơn Tây tỉnh, Quảng Oai phủ, Phúc Thọ huyện, Cam Lâm xã”.

(2)- Nhân dân lập đền thờ phụng tại Hoài An huyện, Thượng Tiết xã. Dựng ngôi Miếu thờ: Đền chính nội ngoại Đại bái 5 gian bằng gỗ lợp ngói (năm 1810). Sau dựng ngôi Đình 3 gian, 2 chái bằng gỗ lợp ngói.

(3)- Đệ niên Tế hưởng chính nhật tại hữu, là các ngày/ Âm lịch trong năm nhân dân làm lễ: Ngày giỗ 18 tháng 1, và Ngày 3 tháng 6, ngày 3 tháng 10.

(4)- Triều đình cấp sắc chỉ: Về địa danh ghi: Hà Nội tỉnh, Hoài An huyện, Trinh Tiết Tổng, Thượng Tiết xã. Tòng tiền phụng sự Tiền Ngô Vương Miếu.  

(**) Sắc phong: còn giữ 8 đạo sắc phong thời Nguyễn:

(1)- sắc chỉ: Hoài An huyện, Thượng Tiết xã Tòng tiền phụng sự Tiền Ngô Vương:  Năm Gia Long  cửu niên (9), bát nguyệt, Sắc phong thời Tự Đức 33 (24-11-1880) nhị thập nhất nhật (21-8), tuế thứ Canh  Ngọ (năm  1810).

( 2)- Sắc chỉ: Hoài An huyện, Thượng Tiết xã: Tòng tiền phụng sự Tiền Ngô Vương. Năm Minh Mệnh nhị niên (2), Thất nguyệt , thập ngũ nhật (15-7). tuế thứ Tân Tỵ (năm 1821). 

( 3)- Sắc chỉ: Ứng Hòa phủ, Hoài An huyện, Trinh Tiết Tổng, Thượng Tiết xã. Tòng tiền phụng sự Tiền Ngô Vương   Năm Tự Đức nguyên niên, nhị nguyệt, thập nhị nhật (20-1), tuế thứ Mậu Thân (năm 1848). 

(4)- Sắc chỉ: Hà Nội tỉnh, Hoài An huyện, Thượng Tiết xã:  Tòng tiền phụng sự Tiền Ngô Vương, Năm Tự Đức lục niên (6), chính nguyệt, thập tứ nhật (14-1), tuế thứ Quý Sửu (năm 1853). 

( 5).  Sắc chỉ: Mỹ Đức đạo, Hoài An huyện, Thượng Tiết xã:  Tòng tiền phụng sự Tiền Ngô Vương, Năm Tự Đức tam thập tam  niên (33),  Thập nhất nguyệt, nhị thập tứ (24-11), tuế thứ Canh Thìn (năm 1880). 

(6)-  Sắc chỉ: Mỹ Đức đạo, Hoài An huyện, Thượng Tiết xã:  Tòng tiền phụng sự Tiền Ngô Vương, Năm Đồng Khánh nhị  niên (2),  Thất nguyệt, sơ nhất nhật (1-7), tuế thứ  Đinh Hợi (năm 1887). 

(7)-  Sắc chỉ: Hà Đông tỉnh,  An Đức huyện, Thượng Tiết xã:  Tòng tiền phụng sự Tiền Ngô Vương, Năm Duy Tân tam  niên (3),  Bát nguyệt, Thập nhất nhật  (11-8), tuế thứ Kỷ Dậu (năm 1909). 

(8)- Sắc chỉ: Hà Đông tỉnh, Mỹ Đức phủ, Thượng Tiết xã:  Tòng tiền phụng sự Tiền Ngô Vương, Năm Khải Định Cửu niên (3),  Thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật  (11-8), tuế thứ Giáp Tý (năm 1924).

Bài và ảnh: Nguyễn Văn Chiến

Nguồn: Ngô Tộc Việt Nam

Ths Nguyễn Thy Ngà

Trở về đầu trang
   Đền Thượng Tiết Tiền Ngô Vương vua Ngô Quyền tượng thờ cổ
0   Tổng số:

Các tin khác

  • Đình Thanh Sơn, thờ phụng Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát và Châu Lan Đại vương
  • Nghệ thuật kiến trúc đặc sắc của Đình đá Tiên Phong
  • Hà Nam: Đình Quan Phố đón nhận Bằng xếp hạng Di tích cấp quốc gia
  • Đình Quan Phố và những nét kiến trúc nghệ thuật độc đáo
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật
  • Di tích đền phủ Ninh Xá ở Nam Định nơi lưu giữ 28 đạo sắc phong
  • Đình Nghĩa Chỉ, Tiên Du, thờ phụng Phùng Hưng và hai vị thủy thần
  • Đình, nghè Mai Động, thờ phụng Đô úy Tam Trinh triều Nhị vua Hai Bà Trưng
  • Đình Tây Đằng – Bảo tàng nghệ thuật kiến trúc thế kỷ 16
  • Di tích phòng tuyến sông Như Nguyệt - Địa danh gắn với chiến thắng lịch sử chống quân Tống
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Long An phát triển du lịch qua di tích lịch sử - văn hóa

    165
  • Quảng Nam: Tây Giang hướng đến phát triển du lịch xanh

    121
  • Hải Dương: Phường rối nước Thanh Hải được công nhận là điểm du lịch

    118
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật

    112
  • Cung đường mới - động lực lớn cho phát triển du lịch hồ Ba Bể (Bắc Kạn)

    105

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2025 Trang thông tin du lịch