• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
Văn hóaGiá trị lịch sử
  • UKEnglish

Giá trị lịch sử

Đền Voi Phục Thụy Khuê, thờ phụng Uy Linh Lang Đại vương

Đền Thụy Khuê tọa lạc tại số 251 đường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội thờ phụng đức Uy Linh Lang Đại vương thời Trần (một số tài liệu ghi là thời Lý).

Thời Lê, địa bàn này thuộc phường Thụy Chương, đến thời Nguyễn kiêng tên huý vua Thiệu Trị mới đổi là Thụy Khuê, thuộc tổng Trung, huyện Vĩnh Thuận cũ. Tại đây đã tìm thấy những viên gạch vồ và tấm bia đá được dựng năm Vĩnh Tộ thứ ba (1621).

Đền Thụy Khuê thờ thần Uy Linh Lang thời Trần (thường bị nhầm với thần Linh Lang thời Lý, được thờ chính ở đền Voi Phục Thủ Lệ như Trấn Tây Thăng Long). Tương truyền đền từng có tượng voi quỳ, nhưng nay hai bên cổng chỉ còn 2 con voi đá nhỏ ở tư thế đứng.

Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, vùng Thụy Khuê thời Lý từng có cung điện Thụy Chương, khổng cuối triều Hồ thì bị tháo dỡ để lấy vật liệu đưa về Tây Đô. Dân địa phương đã xây dựng đền thờ thánh Linh Lang trên nền cung cũ, cổng đền hướng về tường ngoài thành Thăng Long ở mạn tây.

Năm 1608 và 1618, triều Lê hai lần tổ chức lễ cầu mưa đều được linh ứng; nhân đó cho lập biển “Hạ mã”. Khi dân làng đào giếng đã tìm được đôi voi đá nguyên khối, bèn xây bệ trước đền và đặt tượng lên thờ. Từ đó gọi là đền Voi Phục Thụy Chương để phân biệt với đền Voi Phục Thủ Lệ. Năm 1860, Án Sát Sứ Hà Nội là Tiến sỹ Nguyễn Hầu, tự Như Cát, đã thuyết phục kỳ mục sở tại đổi hướng đền sang mạn bắc.

Ngày 22-1-1986 đền Thụy Khuê đã được Bộ Văn hóa và Thông tin xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia.

Kiến trúc

Ngày 30-3-2011, UBND quận Tây Hồ đã khởi công Dự án tu bổ, tôn tạo ngôi đền, vẫn giữ nguyên phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Cổng đền Thụy Khuê quay hướng bắc ra phố Thụy Khuê, có đôi voi đá đứng ngoài. Cổng kiểu tam quan thông phong với 3 bộ cửa gỗ, ngưỡng cao, hai bên hồi có đắp hai tượng hộ pháp.

Qua cổng là sân đền, hai bên có tượng đôi ngựa hồng bạch lớn đặt trong 2 căn nhà một gian lắp cửa kính.

Qua khoảng sân nhỏ là bậc tam cấp bằng đá xanh mịn dẫn ta vào tiền tế. Tòa tiền tế gồm năm gian, vì kèo làm kiểu "chồng rường giá chiêng", dưới là 4 hàng cột, hai vì hồi chạm hai mặt hổ phù, hổ mắt lồi vẻ dữ tợn phản ánh ý thức cầu được mùa của cư dân nông nghiệp. Trên các bức cốn đầu dư, được chạm khắc nhiều đề tài: rồng, mây, hoa la cách điệu. Gian chính giữa treo bức đại tự "Vạn cổ anh linh", hai bên có treo câu đối ca ngợi công tích của thần. Hai gian sát hồi được gắn nhiều bia đá, đó là nhữn bia ghi việc trùng tu sửa chữa đền.

Hậu cung gồm ba gian, cũng giống như tòa tiền tế, đều xây theo kiểu tường hồi bít đốc, theo kiểu duy nhất: "chồng rường giá chiêng". Hai bên hồi cũng trang trí hổ phù, hoa văn hình học, tứ linh tứ quý. Trên cao chính giữa hậu cung là long ngai, bài vị viết "Linh lang Đại vương thượng đẳng thần". Bên cạnh đặt một bát hương bằng đá hình vuông. Mặt chính diện chạm hổ phù, hai mặt bên chạm lưỡng long chầu nguyệt. Đây là hiện vật quý thể hiện nghệ thuật tạo tác thời Lê.

 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 

Trong đền còn tấm bia cao 92cm, rộng 61cm, dày 10cm, được đặt tên thân rùa, bốn mặt đều khắc chữ Hán. Đây là một di vật quý ghi lại nguồn gốc của ngôi đền cũng như quá trình trùng tu, sửa chữa.

Qua tư liệu từ các tấm bia được biết thêm về hướng Đền: trước đây dưới triều Lê, Đền làm theo hướng quay lưng ra Hồ, là để ngăn con đường đi tắt ra hồ. Vào tháng 7 năm Canh Thân (1860) Án Sát Sứ Hà Nội lúc đó là Tiến sỹ Nguyễn Hầu tự là Như Cát, nhân lúc rảnh rỗi đi chơi Hồ Tây đến nơi này cảm hoài nói: "Đền như thế này thì làm sao có thể thu về cái đẹp của non nước bao la, Đền như thế này làm sao bao quát được mây trời vạn dặm vào tầm mắt được… ". 

Thế là ngài hỏi ý kiến các bậc kỳ lão và mọi người bốc cư, bày cách để làm việc phúc, bèn chọn ngày lành tháng tốt xây dựng lại Đền mặt trước của Đền quay về hướng Đông Bắc thay vì hướng Tây Nam như trước đây. Nay Đền nằm trong đất cố thổ của Hồ Tây, lấy Nền La Thành làm hậu chẩm, lấy Sông Tô làm khâm đái, mặt nhìn ra nước Hồ Tây trong xanh, từng lớp sóng bạc dâng trào.

Sau khi làm được như vậy ông nói:"Hồ Sông thực khá lớn vậy. Thần dân phải làm chủ hết thẩy. Nay thuận theo lòng người, chọn được phương, định được vị để xin thân ban phúc. Chúng tôi được ủy thác trông coi muôn dân; đầu tiên là phải làm cho chính sự thanh liêm mà dân hòa. Điều đó phải dựa vào lòng người xu hướng vào đâu, bỏ cái gì mà làm cái gì. Bởi vậy mới nói "Trước tiên là làm tốt đẹp cho dân, sau mới chí kính với Thần vậy".

 Ngày Trùng dương 9 tháng 9 năm Canh Thân, Tự Đức thứ 13 (1860) dựng bia.

Phó Tổng Nguyễn Viết Hướng viết.

Gian chính giữa nhà tiền tế treo bức đại tự “Vạn cổ anh linh”. Bên tả đền mới xây nhà tả mạc 5 gian cửa bức bàn, cách một cái sân. Đối xứng bên hữu cũng xây nhà hữu mạc 5 gian, qua một sân khác giáp với đền Thụy Ứng thờ Mẫu.

Các mảng chạm khắc cũ trong đền cũng mang phong cách nghệ thuật trang trí của thời Hậu Lê. Ngoài hiên chỗ bậc tam cấp còn có các rồng đá được chế tác với những nét hoa văn cách điệu.

Trong đền Thụy Khuê hiện còn lưu giữ được một bộ nghi trượng thờ trong hậu cung, nhìn còn mới nguyên nhưng có niên đại từ thời Hậu Lê (do hội Di sản văn hóa dân gian Hà Nội thẩm định).

Qua nhiều biến động của lịch sử, ngôi đền bảo lưu được  di vật có giá trị cao. Ngoài sáu bia đá, di tích còn bảo lưu được long ngai, bài vị, cửa võng, bát bửu, kiệu, hoành phi, câu đối được sơn son thiếp vàng lộng lẫy với nội dung ca ngợi công tích của thần như đôi câu đối:

Tây Hồ chi sơ Tô Lịch chi dương tự thị giang sơn chân diện mục

Lê thị dĩ tiền Lý triều dĩ hậu bất tùy văn vật cải tinh linh.

Tạm dịch:

Bến nước Hồ Tây, dòng sông Tô Lịch, bộ mặt nước Nam từ đó rạng.

Từ trước thời Lê, nối sau thời Lý, tinh linh văn vật chẳng đổi dời.

Hoặc đôi câu đối:

Đông cung nhất dạ long đằng do truyền thắng tích

Tây trấn thiên thu tượng phục vĩnh ngật thần từ

Tạm dịch:

Hoàng tử một đêm cưỡi rồng bay, còn đây truyền thắng tích

Trấn Tây nghìn năm có Voi Phục, muôn thủa vững đền thờ.

Di sản

Trong khuôn viên đền có 9 cổ thụ, cây to nhất chu vi 5,2m và cao 29m, cây nhỏ nhất chu vi 2,9m và cao 17m.

Hội đền được tổ chức để tưởng niệm Linh Lang đại vương và 6 vị bộ tướng, cứ 5 năm mới làm đại lễ một lần, hàng năm chỉ mở hội lệ. Thời gian diễn ra từ mồng 10 đến 12 tháng Hai âm lịch, chính hội là ngày mồng 10. Trong dịp đó có lễ rước kết chạ với dân Thủ Lệ rất độc đáo.

Hàng năm đến ngày 10, dân Thụy Chương sang Thủ Lệ làm lễ. ở Thủ Lệ, các bô lão phải đảm đương việc “dọn trưởng”. Đường rước từ Thụy Chương sang Thủ Lệ khá xa, phải nghỉ ở miếu Trắng, đã bị phá để mở đường quốc lộ đi Sơn Tây). Ngày 12, đám rước đi ngược chiều từ đền Thủ Lệ sang đây, cũng trải qua các bước như rước từ ban đầu. Tới Thụy Chương, đám rước tập kết ở đình Trên (nay không còn nữa), chỉnh trang rồi mới vào đền làm lễ.

Nguồn: https://360.hncity.org/

Trở về đầu trang
   Đền Thụy Khuê số 251 đường Thụy Khuê quận Tây Hồ Hà Nội thờ phụng đức Uy Linh Lang Đại vương
1   Tổng số:1 lượt

Các tin khác

  • Đình, miếu Xa La thờ phụng Uy Linh Lang Đại vương thời Lý
  • Đình Đông Lâm thờ phụng các tướng lĩnh thời Nhị vua Hai Bà Trưng
  • Đình Phúc Nghiêm, thờ phụng sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp
  • Đặc sắc nghệ thuật điêu khắc Đình Phù Lão
  • Đình Phúc Lộc thờ phụng Đông Hải Đại Vương tôn thần, Tích Lịch tôn thần, Linh Ứng tôn thần
  • Đình Thụy Lôi, thở phụng tứ vị thần chủ của đền Sái và đền Thượng
  • Đình Thụy Hà, Đông Anh thờ phụng Cao Sơn Đại vương
  • Đình Hương Câu, thờ phụng Đương Giang Hiển Thánh Đại Vương và Tam vị Thiên thần
  • Đình Khúc Trì, Kiến An thờ phụng Cao Sơn Đại vương, Quý Minh Đại vương
  • Đình Trình Khúc, Cẩm Khê thờ phụng Cao Sơn Đại vương
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Hành trình chuyển đổi số du lịch - từ xây dựng thể chế, nâng cao nhận thức cho đến thống nhất hành động

    165
  • Chợ đêm Luang Prabang: Nét sống động giữa lòng phố cổ

    126
  • Thị trường du lịch, giải trí sẽ tăng gấp 3 lần, đạt 15.000 tỷ USD vào năm 2040

    124
  • Khai thác thế mạnh du lịch đêm ở vùng cao

    117
  • Những điều du khách nhất định phải biết khi du lịch Trung Quốc

    107

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2025 Trang thông tin du lịch