• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
Văn hóaGiá trị lịch sử
  • UKEnglish

Giá trị lịch sử

Đình Đào Thục, thờ phụng tướng quân Đường Giang thời vua Đinh Tiên Hoàng

Đương Giang là bộ tướng của vua Đinh Tiên Hoàng, giữ chức Đô úy. Đương Giang được Đinh Bộ Lĩnh giao cho 5000 quân sĩ để đi đánh dẹp quân Ngô. Ông lập trại ở trang Đào Xá và gặp âm thần trong mộng là Phi Nương Hoàng hậu. Bà đã phù giúp cho ông thắng trận.

Làng Đào Thục xưa có tên là Đào Xá, đến thời Đồng Khánh (1886-1888) được đổi là Đào Thục.

Đình Đào Thục tọa lạc ở một vị trí như hiện nay được xây năm 1735 do ông Đào tướng công bổ tiền xây dựng (trước đó thì chưa rõ vì không có tư liệu chính xác, nghe các cụ cao tuổi trong làng truyền lại thì Đình làng ban đầu ở phía Đông của làng).

 

Ông Đào Tướng Công tên thật là Nguyễn Đăng Vinh (1659-1732), đỗ Tiến Sĩ năm Tân Mùi 1691 (lúc đó ông 33 tuổi) làm quan Nội Giám trong Triều Hậu Lê. Ông là người luôn dành nhiều tâm huyết để phụng dựng quê hương, xây dựng đất nước trở nên giàu đẹp.

Đối với làng Đào Thục ông rất tâm huyết với quê hương, đã cùng dân làng đẩy mạnh sản xuất, phát triển nhiều ngành nghề, trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa. Tổ chức được các Phường như Phường Thầy, Phường Thợ, Phường Thó (Đóng Cối), Phường Võ và đặc biệt là Phường Rối.

Ông Nguyễn Đăng Vinh có công lớn với dân làng nên khi ông qua đời đã được dân làng lập đền thờ ông lúc đầu ở giữa làng hướng về phía đông (đất nhà ông Bệ bây giờ). Ông đã biên soạn ra bản Hương Ước của làng, xây dựng và quy hoạch đường làng ngõ xóm vuông bàn cờ, trên bến dưới thuyền, do vậy mà làng Đào Thục từ lúc bấy giờ ngày một hưng thịnh phồn vinh, giàu có vào bậc nhất vùng, người dân hòa thuận đoàn kết tự hào với quê hương mình.

Có câu vè nói về con người nơi đây rằng: “Khó Kẻ Đầu hơn Giầu Hàng Tổng” Hay có thơ rằng: “ Đào Xá mở hội vui thay Bên Bắc có chợ, bên Tây có chùa Bên Đông có miếu thờ vua Bên Nam nước chảy đò đưa dập dìu ”.

Nơi đây được hội tụ bởi những người con gái vô cùng xinh đẹp, nết na hiền thục, nên có thơ ca ngợi về người con gái làng Đào Xá rằng: “Đào Xá có đất trồng bông, con gái ra đồng trông tựa tiên xa”. Truyền rằng con gái nơi đây xinh đẹp nổi tiếng khắp vùng nhiều nơi biết đến, vì phụ nữ ở đây nết na hiền thục hay còn gọi là “thục nữ” nên tên Trang Đào Xá mới được đổi thành tên Đào Thục như ngày nay.

Năm 1962 đình làng phải làm nhỏ lại vì hợp tác xã dỡ đình làm trụ sở, nhưng phần Hậu Cung của đình thì vẫn được giữ nguyên. Năm 1975 nước Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, nhân dân Đào Thục cùng đồng bào cả nước đẩy mạnh sản xuất, đời sống vật chất tinh thần được cải thiện và không ngừng nâng cao, các công trình văn hóa được dân làng quan tâm.

Ngày 18 tháng 5 năm Giáp Tuất (1984) đình làng được làm lại lớn hơn trước đó (nhưng vẫn nhỏ hơn đình cũ được làm năm 1735) Đình làng thờ Thần Hoàng Tam Giang Đức Thánh Tam Giang là danh xưng gọi chung Trương Hống và Trương Hát, hai vị tướng được nhắc tới nhiều nhất dưới thời vua Triệu Quang Phục.

Tên gọi Tam Giang xuất phát từ tên gọi mà các triều đại Phong kiến Việt Nam phong cho hai ông: "Tam Giang thượng đẳng thần". "Tam Giang" còn bắt nguồn từ cách gọi chung của ba con sông là sông Cầu, sông Thương, sông Đuống - nơi có nhiều đền thờ hai ông.

Hai anh em ngài được đánh giá, đều là bậc tướng, chí dũng song toàn, "sinh vi dũng tướng, tử vi minh thần". Xuất thân Hai ông sinh ra trong một gia đình gồm năm anh em, bốn trai, một gái. Ba người còn lại là Trương Lừng, Trương Lẫy, và người con gái là Trương Đạm Nương.

Năm anh em sinh ngày 15, tháng Giêng, năm Nhâm Ngọ (502), người làng Vân Mẫu, xã Vân Mẫu, huyện Quế Dương (sau là Võ Giàng), quận Vũ Ninh, xứ Kinh Bắc, (nay là thôn Hai Vân, phường Vân Dương, thành phố Bắc Ninh). Mẹ là con gái họ Phùng, tên hiệu là Từ Nhan, sinh năm Quý Hợi 483 thời Tiền Lý Nam Đế. Năm Từ Nhan 18 tuổi, vào đêm rằm tháng một (theo cách gọi xưa, còn theo cách gọi hiện nay thì là tháng 11) năm Canh Thìn (500) bà nằm chiêm bao thấy Thần Long quấn mình trên sông Lục Đầu, sau đó bà mang thai.

Sau 14 tháng mang thai, ngày 5 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (502) bà lên chùa lễ phật trở về đến xứ Cửa Cữu làng Vân Mẫu thì trở dạ, sinh ra một bọc 5 con. Người mẹ hết lòng chăm lo các con ăn học. Năm anh em là học trò của Tiên sinh Lã Thị người hương Chu Minh, lộ Bắc Giang (tức xã Hương Mạc, huyện Từ Sơn ngày nay).

Anh em học đến đâu lầu thông kinh sử đến đấy, ngày ngày chăm đọc binh thư, siêng rèn võ nghệ, nên đều là những người tinh thông văn võ. Khi anh em 17 tuổi thì mẹ mất (ngày 15 tháng 4 âm lịch năm Kỷ Hợi 519) và 5 anh em đã táng mẹ tại xứ đồng Bãi Cả, hiếu thảo thờ mẹ 3 năm.

Giúp Triệu Việt Vương đánh quân Lương. Năm 545 nhà Lương, đời vua Đại Đồng năm thứ bảy, cử tướng Dương Phiêu và Trần Bá Tiên đem quân sang xâm lược Việt Nam. Lý Nam Đế đem quân chặn đánh nhưng vì quân ít không cản được giặc phải rút về miền núi động Khuất Lão (Tam Nông, Vĩnh Phú) trao quyền cho tướng Triệu Quang Phục, rồi mất tại đó.

Vua Triệu Quang Phục đưa quân về đầm Dạ Trạch (Hưng Yên) đánh phục kích, đồng thời truyền hịch trong dân gian tìm người tài giỏi đánh giặc giúp nước. Hưởng ứng lời kêu gọi của (vua) Triệu Quang Phục Hai ông Trương Hống, Trương Hát nghe có hịch chiêu tài, anh em bàn nhau xin lệnh thầy, dụng kế lập thân, về quê mộ quân để đi giúp nước.

Sau này các ông đến địa phận làng Tiên Tảo, huyện Kim Hoa, phủ Đa Phúc, lộ Bắc Giang thấy đất có thế ỷ giốc, tiến thoái lưỡng tiện có thể dụng binh liền cho quân hạ trại, làm tờ chiêu dụ nhân dân.

Tờ rằng: "Đất nước Vạn Xuân ta đang thanh bình, càn nguyên hanh thái, bỗng đâu giặc Lương xâm lấn, xã tắc đảo điên, muôn dân khốn khổ. Bọn Hống-Hát chúng tôi xuất thân con nhà lam lũ, được học võ nghệ, có chút mưu cơ, dám đem sức lực người bản xứ, dấy binh cuốc cầy, địch cùng lang sói ngoại bang, giúp Triệu Việt Vương giữ an bờ cõi, dám mong chư vị bàn dân hưởng ứng nghĩa quân thì lấy làm may lắm".

Phụ lão làng ấy tiếp tờ, thấy các ông dung dị khác thường, uy nghi đường bệ, thi đua nhau cho con cháu đi theo làm quân sỹ. Trận đầm Dạ Trạch Triệu Quang Phục được tin, sai sứ lên phong Trương Hống làm thượng tướng quân, Trương Hát làm phó tướng quân, Lã tiên sinh làm quân sư, Trương Lừng, Trương Lẫy làm tỳ tướng, Đạm Nương làm hậu binh lương và lo kế sách phản công.

Đúng kỳ thúc giáp, hai phía cùng truyền lệnh quân cơ, tỏa binh tiếp trận, quân Triệu Quang Phục ở Dạ Trạch tiến lên, quân Hống-Hát ở Tiên Tảo kéo xuống, thủy bộ bốn mặt giáp công, xung đột tung hoành đánh rất dữ dội.

Quân Lương không sao chống cự nổi, đại bại rã rời, số chạy dẵm đạp lên nhau, chết hại nhiều vô kể, số bị bắt mặt mày tái mét, run rẩy van xin, chánh tướng Trần Bá Tiên tử trận, phó tướng Dương Phiêu phải thu nhặt tàn quân rút về Bắc quốc.Dẹp xong giặc rồi, khải hoàn tấu tiệp, Triệu Việt Vương kéo quân về Long Biên sang sửa đô thành.Nước nhà độc lập.

Vua Triệu Quang Phục lên ngôi, phong thưởng cho các tướng có công đánh giặc. Vua Triệu phong thực ấp cho hai anh em họ Trương ở Kinh Bắc, Trương Hống ở làng Tiên Tảo, huyện Kim Anh (nay là thôn Tiên Tảo, xã Việt Long, huyện Sóc Sơn), Trương Hát ở làng Tam Lư, huyện Đông Ngàn (nay là thôn Tam Lư, Từ Sơn, Bắc Ninh) là nơi dấy binh cũ.

Tôi trung chẳng thờ hai vua

Được tin Triệu Quang Phục lên ngôi vua, Lý Phật Tử (người họ Lý Nam Đế) đã đem quân đánh lại nhưng không thắng, bèn dùng kế cầu hôn gả con. Trương Hống và Trương Hát đã can Triệu Việt Vương đừng gã Cảo Nương cho Nhã Lang. Nhưng Triệu Quang Phục không nghe, mắc mưu của Lý Phật Tử, rồi bị đánh úp.

Lý Phật Tử lên ngôi vua tự xưng là Hậu Lý Nam Đế và biết các ông là tướng tài giỏi bèn cho người vời ra làm quan. Song các ông nhất lòng trung quân không theo Lý Phật Tử, thưa lại rằng: Tôi trung chẳng thờ hai vua, gái trinh chẳng đổi hai chồng, huống hồ ngươi là người bội nghĩa mà còn muốn khuất cái tiết bất di dịch này ư?

Biết không thể khuất phục được, Lý Phật Tử lệnh truy bắt các ông khắp nơi. Các ông trốn vào ở núi Phù Long; Nam Đế nhiều lần cho người đến truy nã không được, mới treo ngàn vàng cầu người bắt.

Các ông bàn nhau cùng đem gia quyến xuôi dòng sông Cầu, uống thuốc độc để giữ trọn tấm lòng trung với vua. Nhân dân dọc theo sông Cầu và các nơi các ông từng đóng quân đánh giặc đã vô cùng khâm phục, thương tiếc, lập đền thờ làm Thần.

Tam Giang là tên gọi chung của hai tướng Trương Hống và Trương Hát. Hiện nay đình làng thờ ba vị thần, ngoài đức thánh Tam Giang, còn có đức thánh Đương Giang và Phi Nương Hoàng Hậu.

Trước đây hai vị thần là Đương Giang và Phi Nương Hoàng Hậu có đền thờ tại Nghè Đào Thục. Năm 1951 quân giặc phá mất đền nên dân làng rước hai vị về thờ tại đình làng. Ngày xưa hàng năm cứ đến ngày hội làng 12 tháng 11 dân làng có tục lệ rước hai vị thần ở Nghè về đình làng và mở hội, ngày 15 tháng 11 hết hội lại rước hai vị về Nghè, do vậy làng mới có “đường riêng thần” ở ven chùa Thánh Phúc khu “Đồng Giai” ven làng.

Ngày nay lệ rước đó không còn vì hai vị thần đã được thờ tại đình làng. Truyền thuyết về bài thơ Thần lần hai nói về Thánh Đương Giang: Xét Sử ký của Đỗ Thiện chép thời Nam Tấn Vương nhà Ngô đi đánh giặc Lý Huy ở Long Châu (Tây Long), đóng quân ở cửa Phù Lan (sông Lục Đầu), đêm ngủ mộng thấy hai người y quan kỳ vĩ, diện mạo khôi ngô, đến xin tòng quân trợ chiến.

Sau khi Thần kể hết sự tình lúc sống theo Triệu Quang Phục đánh giặc, chết được Thượng đế thương vô tội chết chẳng phải mệnh, phong làm Thủy thần, thống lĩnh tướng các âm binh, hiệu là Thần Giang Đô Phó Sứ, đã từng trợ thuận Ngô Quyền trong chiến dịch Bạch Đằng vua tỉnh dậy, bảo đem cỗ rượu đến điện tế, khấn rằng: Quả có anh linh, hãy phù trợ chiến dịch này, nếu được thắng lợi, tức thì dựng miếu và phong tước, hương hỏa đời đời.

Lại hôm khác, vua mộng thấy hai Vương đốc binh, bộ ngũ liên thuộc đều có mặt mày như quỷ thần cả, hàng ngũ rất nghiêm, bộ lạc rất chỉnh tề hội tại cửa Phù Lan.

Binh ông anh đóng từ sông Vũ Bình đến sông Như Nguyệt tiến đến đầu nguồn sông Phú Lương; Binh ông em đi từ men sông Lạng Giang vào sông Nam Bình (sông Thương). Vua tỉnh dậy bảo với tả hữu, quả nhiên trận ấy được toàn thắng.

Bình xong giặc Tây Long, vua sai Sứ chia chỗ lập đền thờ, đều phong làm Phúc Thần một phương, chiếu phong anh là Đại Đương Giang Đô Hộ Quốc Thần Vương, lập đền ở cửa sông Như Nguyệt (cửa sông Cà Lồ, Ngã ba Xà, chỗ sông Cà Lồ đổ ra sông Cầu). Còn em là Tiểu Đương Giang Đô Hộ Quốc Thần Vương, lập đền ở cửa sông Nam Bình (cửa sông Thương).

Đức Thánh Đương Giang là một vị Thần cõi âm, lúc sống ở dương gian là vị tướng tài của Triệu Quang Phục, khi chết được Thượng đế phong làm Thủy thần thống lĩnh các tướng “âm binh” luôn theo ngầm trợ giúp triều đình. Nam tướng Đương Giang trong bản ngọc phả tại đình làng Đông Lai- Xã Quang Tiến - Huyện sóc sơn - Tp.Hà Nội. (Bản Ngọc Phả được làm bằng gỗ Dài 1,8 mét, cao 60cm. Ghi 1.700 chữ Hán) – chưa được sách sử nào nhắc đến đến được dịch ra rằng: Một vị Đại Vương hai vị âm thần thuộc triều đại Hai bà Trưng.

Đời xưa Vua Hùng Thánh Tổ ứng vận trên hai nghìn năm núi xanh muôn dặm, xây dựng cơ đồ, nước biếc một dòng, mỗ đương thánh đế. Chăm vạn  người chia thành mười năm bộ. Đấy là Triệu tổ của người  Bách- Việt ta vậy đến cuối đời nhà Hùng. Trăm đời núi sông, trưm thần khả năng xuất thế  đầu thai vào các nhà dân để làm con, bấy giúp nước nuôi dân. Nhà nào có phúc thì gặp được.   

Truyền rằng : Đời Vua Hùng thứ mười tám dân trời đã hết. Trải qua các triều  Trung Hoa ngự trị. Như nhà Đông, Tây Hán hơn vài trăm năm, đến đời Hai Bà Trưng, có người ở làng Sầm – Sơn, huyện Anh Sơn, Phủ Kinh  Môn đạo Hải Dương là Họ Phùng Húy Thắng, thê Phạm Thị phương, là người lấy nghề đánh cá sinh nhai. Tuy nghèo nhưng hay làm điều có nghĩa. Việc hay tuy nhỏ cùng làm. Điều ác một chút không động, Không bao giờ nghĩ  đến điều gì hại người, một  chút lợi cho mình không để tâm đến.

Nhân dân  trong vùng  ấy đều khen là nhà ấy hay làm điều lành thế ắt có phúc thừa. Thì đấy vợ chồng đánh cá để sinh sống, dần dần giàu có, đến khi ông đã năm mươi tuổi, bà hơn bốn mươi mà chưa có con trai cho nên thường buồn phiền mà than rằng. Núi vàng bể thóc khinh như cỏ rác, con hiếu cháu hiền quý hơn vàng ngọc.

Ông bà bèn bỏ tiền của cứu giúp  người nghèo đói, rồi  sửa soạn một chiếc thuyền cả hai ông bà theo dòng sông Nguyệt mà đi. Đi đến đạo Kinh Bắc, Phủ Hà – Bắc(Sau gọi là phủ thiên phúc), Huyện Kim hoa, khu vai sái (sau gọi là trang Xuân - Bách), đi được nửa ngày mới ra đến một sông nhỏ chợt thấy trời tối tăm, ban ngày như đêm, một trận gió dữ nổi dậy, làm vợ chồng ông bị ngã, ngửa mặt lên trời chợt  thấy  một đám mây đẹp, hướng về họ Phạm mà xuống.

Hai vợ chồng ông bèn chạy vào trong miếu ẩn. Trông lên trên miếu thấy  có  chữ “Tối Linh Thủy Cung” ở trước cửa miếu. Ông bèn ngầm khấn khứa, trị nhiên thấy trên miếu có 1 ánh hào quang quấn quanh mình họ Phạm. Bà Phạm Thị sợ hãi, nằm thiếp đi mơ màng, mơ thấy một chàng nam nhi từ đường xá đị lại xưng là Thủy Thần vâng lệnh thiên đình đầu thai làm con.

Được một lúc  thì bà Phạm Thị tỉnh dậy, sắc trời đã sáng dần. Bà Phạm lấy làm việc lạ bèn bảo Chồng. Chồng Thầm nghĩ cho là điều lành. Ông bèn xuống thuyền quay về nhà, thấy bà Phạm Thị như có thai. Đến năm giáp thìn, tháng tám ngày mồng mười sinh ra  một người con trai.

Thiên tư tốt đẹp, tướng mạo khác thường . Ông cho rằng là Vị Thủy Thần xuất thế hun đúc nên đặt tên là ĐƯƠNG GIANG.. Các cụ cao lão trong làng Đào Thục có ghi chép và truyền lại rằng: Đức Thánh Đương Giang (Thần Phả xưa do ông Đại Học Sĩ soạn thảo) truyền rằng năm 1572 mẹ Thánh Đương Giang là Đào Thí Hoa Long sinh ra ông ngày 13 tháng 11 năm Quý Tỵ, Giang chóng lớn như thổi lại thông minh giỏi võ được

Vua Đinh Tiên Hoàng cho cầm quân đánh giặc. Ông mang 5 nghìn quân đi đánh giặc, đến Nghè Đào Xá (Đào Thục) thì đoàn quân của nhà vua nghỉ lại lập đồn ở đó, nghè Đào Thục có địa thế cũng rất hiểm trở của việc tập kết thuyền bè, trên bến dưới thuyền rất thích hợp cho việc phòng thủ tập hợp thủy binh bảo toàn lực lượng, lúc bấy giờ có hơn 30 thanh niên trai tráng làng Đào Xá cũng hăng hái tham gia phục vụ và theo hầu đoàn quân triều đình đi đánh giặc.

Lại nghe nói vào một đêm tại đây ông nằm mơ thấy một người con gái đẹp lộng lẫy, mặc quần áo chỉnh tề tự xưng là Phi Nương Hoàng Hậu và nói: “Ông cầm quân đi đánh giặc tôi sẽ phù ông, sau này thành công thì đồng hưởng”, và quả thật sau đó ông đã đánh tan quân Ngô, chém đầu tướng giặc, sau khi thắng giặc ông nói: “Tôi qua đời nếu thờ tôi thì cũng thờ cả Phi Nương Hoàng Hậu”.

Ngày mồng 10 tháng tư ông “hóa” từ đó ông được triều đình phong thánh và cho xây dựng đền thờ ở những nơi ông trú chân, dân làng Đào Xá cũng được lập đền thờ ông tại Nghè, thờ luôn hai vị thần Đương Giang và Phi Nương Hoàng Hậu. Một số sắc phong Niên hiệu Trùng Hưng năm đầu (Trần Nhân Tông), sắc phong Như Nguyệt Khước Địch Đại Vương, năm thứ tư gia phong Thiện Hựu Dũng Cảm. Các triều vua về sau: Trần, Lê đem quân đánh giặc phương Bắc tại dòng sông Cầu đều được Thần âm phù đánh thắng và đều có sắc phong cao nhất cho Thần là "Tam Giang thượng đẳng thần".

Nguồn: Phường múa rối nước Đào Thục

Ths Nguyễn Thy Ngà

Trở về đầu trang
   Đình Đào Thục tướng Đường Giang triều đại Đinh Tiên Hoàng
0   Tổng số:

Các tin khác

  • Đình Thanh Sơn, thờ phụng Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát và Châu Lan Đại vương
  • Nghệ thuật kiến trúc đặc sắc của Đình đá Tiên Phong
  • Hà Nam: Đình Quan Phố đón nhận Bằng xếp hạng Di tích cấp quốc gia
  • Đình Quan Phố và những nét kiến trúc nghệ thuật độc đáo
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật
  • Di tích đền phủ Ninh Xá ở Nam Định nơi lưu giữ 28 đạo sắc phong
  • Đình Nghĩa Chỉ, Tiên Du, thờ phụng Phùng Hưng và hai vị thủy thần
  • Đình, nghè Mai Động, thờ phụng Đô úy Tam Trinh triều Nhị vua Hai Bà Trưng
  • Đình Tây Đằng – Bảo tàng nghệ thuật kiến trúc thế kỷ 16
  • Di tích phòng tuyến sông Như Nguyệt - Địa danh gắn với chiến thắng lịch sử chống quân Tống
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Long An phát triển du lịch qua di tích lịch sử - văn hóa

    164
  • Quảng Nam: Tây Giang hướng đến phát triển du lịch xanh

    121
  • Hải Dương: Phường rối nước Thanh Hải được công nhận là điểm du lịch

    118
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật

    112
  • Cung đường mới - động lực lớn cho phát triển du lịch hồ Ba Bể (Bắc Kạn)

    104

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2025 Trang thông tin du lịch