• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
Văn hóaGiá trị lịch sử
  • UKEnglish

Giá trị lịch sử

Nhị trọng thần anh hùng thời vua Lý Nam Đế - Danh tướng Triệu Túc và Thái sư Tinh Thiều

Dưới triều đại của vua Lý Nam Đế, nổi danh anh hùng, ngàn thu sáng mãi là danh nho Tinh Thiều, và tù trưởng Chu Diên, thái phó đầu triều Triệu Túc, những trọng thần đã dựng lên nhà nước Vạn Xuân.

Danh tướng Triệu Túc

Danh tướng Triệu Túc là người huyện Chu Diên (Hưng Yên ngày nay). Theo Đại Việt sử ký toàn thư, ông là tù trưởng huyện Chu Diên, rất mến phục tài đức của Giám quân châu Cửu Đức là Lý Bí (Lý Bôn), mưu cùng khởi nghĩa chống nhà Lương. Tham gia còn có em ông là Triệu Quang Thành và con trai Triệu Quang Phục.

Đức ngài Lý Bí (Lý Bôn) tập hợp hào kiệt Giao Châu, khởi nghĩa chống nhà Lương năm 541. Qua 3 năm chiến đấu, 3 lần đánh bại quân Lương, đánh đuổi quân Lâm Ấp xâm lấn phía nam. Năm 544, Lý Bí (Lý Bôn) xưng đế, đặt niên hiệu Thiên Đạo, lập trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân. Trong những tướng thân cận phò tá, Triệu Túc nhận sắc phong thái phó, Tinh Thiều lãnh đạo các quan văn, Phạm Tu đứng đầu các tướng võ; Triệu Quang Phục được sắc phong Tả tướng quân.

Vốn mến mộ tài danh của Lý Bí từ lâu, lão tướng Triệu Túc, khi đó bảy mươi tuổi, đem hết quân bản bộ theo Lý Nam Đế đánh nhà Lương, cùng các cánh quân hợp vây thành Long Biên rất gấp. Nghĩa quân đi đến đâu, giặc Lương bỏ đất bỏ thành chạy đến đó.

Thứ sử Tiêu Tư run cầm cập trong tòa cổ thành Long Biên, chỉ còn biết đem vàng bạc châu báu xin gặp nghĩa quân Lý Bí có ý xin giãn vòng vây để y cùng đám quan lại phương Bắc có thể toàn mạng mà về. Cũng là cùng đường sinh càn bậy chứ với cách ứng xử của Lương triều bấy giờ, mất đất mà về cũng coi như cầm chắc cái chết.

Nghĩa quân Lý Bí đứng đầu là danh tướng Triệu Túc vào thành Long Biên ổn định đời sống mọi mặt của muôn dân trong ngoài thành cũng là lúc nhận được tin cấp báo, Lương Vũ Đế không chịu được nhục đã sai các danh tướng là Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng mang năm vạn binh sang, quyết đàn áp cuộc khởi nghĩa. Tôn Quýnh, Lư Tử Hùng vốn là những tướng dày dạn trận mạc một mặt nhận mệnh vua đôn đốc binh tướng rất gấp, một mặt cho người dò la thực lực nghĩa quân của Lý Bí cẩn thận.

Bọn tướng phương Bắc từ trước đó mỗi khi phải xuống phương Nam giao chiến đều một đi không trở lại, nên chúng rất cẩn thận. Biết được điều đó, Bộ tham mưu của nghĩa quân Lý Bí gồm Tinh Thiều, Triệu Túc, Phạm Tu, cùng các tướng trẻ là Phùng Thanh Hòa, Triệu Quang Phục đã mạnh dạn đưa ra đề xuất đem đại binh sang Hợp Phố (nơi tập hợp binh tướng chuẩn bị Nam chinh của Tôn Quýnh, Lư Tử Hùng) đánh phủ đầu quân Lương.

Nghĩa quân vốn sẵn lòng căm thù giặc, lại qua mấy trận kịch chiến ở Long Biên khí thế đang hăng, nhất là các tướng trẻ như Phùng Thanh Hòa, Triệu Quang Phục đã thành thạo các phép đánh thành, đốt lương, hợp vây, tiến lui đều xuất quỷ nhập thần nên việc muốn dạy cho binh tướng Lương triều một bài học là rất cần vậy.

Từ chủ trương đó, các tướng của Lý Bí đã xuất kỳ bất ý chia binh đánh thẳng sang Hợp Phố, phá tan đại bản doanh của quân xâm lược nhà Lương rồi lại thần tốc rút về Long Biên. Đây là một chiến công lớn thể hiện tư tưởng quân sự tiên phát chế nhân. Điều này, các danh tướng đời sau của Đại Việt đều có lúc dùng đến mà điển hình là việc Lý Thường Kiệt xuất binh theo hai đường thủy bộ sang đánh Khâm Châu, Liêm Châu, Ung Châu khiến nhà Tống hoảng sợ và rối loạn.

Khi rút về thành Long Biên bình an, biết trước Lương Vũ Đế sẽ xua binh tướng sang rửa nhục, Lý Bí cùng các tướng mau chóng củng cố thành trì, nâng cao thế nước, lòng dân. Đúng lúc đó, vua nước Lâm Ấp phản bội bất thần đem đại binh tấn công cướp bóc vùng biên giới châu Cửu Đức, Ái Châu. Trước tình hình đó, Lý Bí giao cho lão tướng Phạm Tu quyền thống xuất đại binh Nam chinh đánh giặc Lâm Ấp.

Không hổ là một bậc danh tướng đương thời, lão tướng Phạm Tu đại thắng nơi biên giới, phá tan hàng vạn quân giặc, chém tướng chặt cờ, suýt bắt được vua Lâm Ấp tại trận tiền, khiến người Lâm Ấp khiếp sợ mà rút chạy không dám nhòm ngó châu Cửu Đức nữa. Cả một dải biên cương phía Nam sớm được bình yên, các đình đền chùa miếu thờ tướng quân Phạm Tu còn cho đến ngày nay.

Dưới sự tham mưu đắc lực của danh nho Tinh Thiều cùng các vị lão tướng, năm 544, Lý Bí lên ngôi, xưng là Lý Nam Đế, đặt tên nước Vạn Xuân, cho xây chùa Trấn Quốc để nối nền quốc thống, triều định trăm quan. Phong Tinh Thiều đứng đầu Ban Văn, Phạm Tu đức đầu Ban Võ, Triệu Túc phong làm Thái phó. Các tướng trẻ Triệu Quang Phục làm Tả tướng quân; Phùng Thanh Hòa làm Hữu tướng quân. Đây là một nhà nước có đủ triều nghi, phẩm phục, các ban văn võ, lấy trị quốc an dân làm đầu, đặt quyền độc lập tự chủ dân tộc làm nền tảng.

Nhận được tin đó, Lương Vũ Đế như ngồi trên đống lửa, ăn không ngon ngủ không yên, không thể nào có Nam đế sánh với Bắc đế như thế được. Điều này là một cái tát vào bộ mặt Lương triều. Lương Vũ Đế lập tức cử Dương Phiêu và Trần Bá Tiên đem đại binh sang đàn áp.

Trần Bá Tiên là danh tướng số một của Lương triều, một bậc đại gian hùng sau này đã thình lình từ Giao Châu trở về cướp ngôi nhà Lương lập ra nhà Trần. Nhưng khi đó có nằm mơ Lương Vũ Đế cũng không thể tưởng tượng ra điều tồi tệ đó.

Đại binh của Dương Phiêu và Trần Bá Tiên thực hiện kế sách đốt sạch, phá sạch, giết sạch rất tàn ác. Các lão tướng Phạm Tu, Triệu Túc lập tức chia binh lên vùng biên ải lập các phòng tuyến chặn giặc.

Nhất là ở các cửa sông đều có quân binh thuyền bè ứng chiến cầm chân giặc. Hung mãnh như Trần Bá Tiên cũng phải sáu tháng sau quân giặc mới tiến được tới chân thành Long Biên.

Đạo quân của Trần Bá Tiên được Lương Vũ Đế liên tiếp tăng viện, phu phen, ngựa chiến, lương thảo kéo đến như mây. Đây cũng chính là kế hiểm của Trần Bá Tiên với danh nghĩa thảo phạt phương Nam để ngầm rút binh lực của Lương Vũ Đế hòng sau này tạo phản được dễ dàng. Than ôi đám quan lại tướng tá phương Bắc chỉ luôn rình rập ám toán lẫn nhau, cũng là một vết nhục của lịch sử nước chúng vậy.

Trước tình thế chênh lệch quá lớn về lực lượng, biết không thể giữ được thành, lão tướng sau nhiều ngày đêm huyết chiến với quân giặc đã hi sinh vì nước nơi cửa thành sông Tô Lịch. Lão tướng Triệu Túc đã bảy mươi lăm tuổi đầu tóc bạc phơ vẫn tuốt kiếm xông thẳng vào quân giặc khiến chúng kinh hãi.

Mãi còn đó tấm gương trung liệt chẳng phai mờ của hai vị lão tướng cũng là trụ cột của Lý triều đã đem thân mình gìn giữ nền độc lập. Hình ảnh đó mãi là hình ảnh trường tồn xuyên suốt lịch sử đến hôm nay và cho cả mai sau.

Lão tướng Triệu Túc sinh năm 470, mất năm 555, cả đời ông chăm dân mở đất, khai hoang phục hóa vùng đất Chu Diên - đầm Dạ Trạch, lớn lên được suy tôn làm tù trưởng. Buổi Lý Bí dấy quân khởi nghĩa, vị tù trưởng đem toàn bộ binh tướng thuộc quyền, cả người con tài giỏi nhất là Triệu Quang Phục theo về dưới cờ nghĩa. Ông hi sinh lẫm liệt vì nước.

Theo sử gia Nguyễn Khắc Thuần, thái phó Triệu Túc tham gia chiến trận chống quân Lương do Trần Bá Tiên và Dương Phiêu chỉ huy năm 545 và hy sinh cùng tướng Phạm Tu và danh nho Tinh Thiều. Thành Gia Ninh vỡ, gần như toàn bộ tướng lĩnh và quan lại cao cấp nhất của nước Vạn Xuân thiệt mạng trong thất bại này, vua Lý Nam Đế phải rút về quận Tân Xương tổ chức lại lực lượng chiến đấu.

Con trai ông, vị tướng tài danh liền sau đó được Lý Nam Đế giao toàn bộ binh quyền trở về đầm Dạ Trạch kiên trì kháng chiến và lên ngôi vương rạng danh trong lịch sử Việt Nam.

Danh tướng Triệu Túc và Danh nho Tịnh Thiều

Danh nho Tinh Thiều, thái sư triều vua Lý Nam Đế

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, ông là là người Sơn Tây (Hà Nội hiện nay), giỏi từ chương và từng muốn phục vụ cho nhà Lương. Ông đến Kiến Khang kinh đô nhà Lương, xin được chọn làm quan. Mặc dù ông đã chứng minh được tài năng của mình nhưng Thượng thư bộ Lại nhà Lương là Sái Tôn cho rằng họ Tinh trước không có ai hiển đạt, nên chỉ bổ cho ông chức Quảng Dương môn lang, tức là lính gác cửa ở kinh thành. Tinh Thiều lấy làm nhục, bèn bỏ chức của nhà Lương trở về làng, theo Giám quân châu Cửu Đức là Đức ngài Lý Bí  (Lý Bôn)mưu khởi nghĩa chống nhà Lương.

Đức ngài Lý Bí  (Lý Bôn)tập hợp hào kiệt Giao Châu, khởi nghĩa chống nhà Lương năm 541. Qua 3 năm chiến đấu, 3 lần đánh bại quân Lương, lại đánh đuổi quân Lâm Ấp xâm lấn phía nam. Năm 544, Đức ngài Lý Bí  (Lý Bôn) lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu Thiên Đức, lập trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân. Trong những người phò tá, Tinh Thiều đứng đầu các quan văn với chức Thái sư, Phạm Tu đứng đầu các tướng võ, Triệu Túc làm thái phó.

danh nho Tinh Thiều - một trong những trụ cột của Đức ngài Lý Bí  (Lý Bôn)đã sớm có mặt từ buổi đầu cuộc khởi nghĩa, ba lần tham dự và bày mưu đánh bại giặc Lương, bản thân tử chiến tại cửa thành sông Tô Lịch.

Trước khi hi sinh, năm 544, chính danh nho Tinh Thiều cùng với hai lão tướng Phạm Tu và Triệu Túc đã đạo diễn để Đức ngài Lý Bí  (Lý Bôn)lên ngôi xưng là Lý Nam Đế lập nước Vạn Xuân với mong muốn xã tắc của người phương Nam truyền đến muôn đời, đối xứng với các hoàng đế phương Bắc.

Ông còn tham mưu để lập ra hai ban Văn -Võ (ông đứng đầu ban Văn với chức Thái sư) với hệ thống quan viên rất quy củ. Lại xin phong cho Triệu Túc làm Thái phó, một trong ba chức quan đứng đầu triều (Thái sư, Thái phó, Thái úy). Đây chứng tỏ là một viễn kiến sâu sắc về công việc triều chính vốn còn khá lạ lẫm với các tù trưởng, quan lại phụ thuộc của Giao Châu lúc đó khi phải xử lý công việc với sự áp đặt của phong kiến phương Bắc.

Đại Việt sử ký toàn thư tuy chép khá sơ sài về triều đại Lý Nam Đế, đặc biệt là các trụ cột triều đình như: Tinh Thiều, Phạm Tu, Triệu Túc… nhưng những chiến công của các trụ cột này đã vang vào chính sử và không thể phai mờ.

Ngay như Lương sử cũng đã chép về việc binh tướng của Đức ngài Lý Bí  (Lý Bôn) đã sang tận đất Hợp Phố phương Bắc phá tan quân lương của các tướng Tôn Quýnh, Lư Tử Hùng khiến chúng kinh hãi phải lúng túng mất thời gian dài mới huy động được trở lại binh lực để tiến đánh nước ta. Mưu kế tiên phát chế nhân, vào thẳng đất địch đánh địch, thọc sâu vào sào huyệt giặc trước nay chưa từng có. Đây không chỉ khẳng định sự dũng cảm của các võ tướng mà còn là bản lĩnh thâm hậu của mưu thần.

Khi tham mưu đề xuất để đại binh đánh thẳng sang Hợp Phố, quân sư Tinh Thiều cùng các tướng của Đức ngài Lý Bí  (Lý Bôn) đã có sự trưởng thành vượt bậc về nghệ thuật quân sự, cách tổ chức hành quân tiến đánh nơi đất giặc, khả năng vượt trội về phương tiện kỹ thuật như voi ngựa, thuyền bè.

Nước ta thuở ấy, binh tướng vốn rất giỏi thủy chiến và khả năng đội thủy quân của Đức ngài Lý Bí  (Lý Bôn) theo đường sông đường biển tiến đánh bán đảo Hợp Phố chắc chắn đã xảy ra. Đạo quân trên bộ chỉ là kỳ binh mà thôi. Đánh vào đất giặc biết dùng chính binh và kỳ binh chỉ có được ở những quân sư xuất sắc. Danh nho Tinh Thiều là một người như vậy. Ông đã góp phần làm rạng danh lịch sử đánh giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.

Vừa mới chiếm được thành Long Biên, lập tức tiến hành đánh phủ đầu quân Lương ở Hợp Phố, bỗng thình lình vua Lâm Ấp phản bội lời ước đem đại binh xuống cướp phá vùng biên viễn Hoan Châu, Ái Châu. Trước tình hình đó, Bộ tham mưu - đặc biệt là quân sư Tinh Thiều - đã đề xuất phương án giao đại quân cho Phạm Tu nam chinh dẹp loạn.

Lão tướng Phạm Tu cũng là bậc kỳ tài quân sự bấy giờ. Mặc dầu tuổi gần bảy mươi, song sức vóc và mưu lược của vị lão tướng vẫn khiến quân thù khiếp sợ. Không phụ lòng tin cậy của Đức ngài Lý Bí  (Lý Bôn)và quân sư, lão tướng Phạm Tu đã đại thắng, yên ổn dải đất biên cương phía Nam. Chính điều này đã gia tăng thực lực và uy tín của nghĩa quân Lý Bí, làm nền tảng để danh nho Tinh Thiều đề xuất việc thành lập triều đình, dựng ngôi nước, tính kế lâu dài.

Năm 544, tháng Giêng, được sự giúp rập của các trụ cột, Đức ngài Lý Bí  (Lý Bôn)lên ngôi xưng là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, lấy niên hiệu là Thiên Đức. Trong cuộc lên ngôi này, công lớn thiết kế triều chính là danh nho Tinh Thiều. Từng sang tận kinh đô Kiến Khang của nhà Lương, nghiên cứu kỹ hệ thống quan lại, thiết chế triều chính, phẩm phục hàm cấp, Tinh Thiều có một quan điểm chính tắc trong tiến trình dựng nước. Dứt khoát người phương Nam phải làm chủ ngôi vị ở phương Nam.

Nhà nước Vạn Xuân với các châu quận trải dài hàng trăm dặm vừa có cương vực lãnh thổ vừa có lòng dân hướng về thì việc cần phải có thiết chế triều chính – một sự tiến bộ vượt bậc lúc bấy giờ. Việc hình thành thiết chế hai ban Văn -Võ với sự đứng đầu của các trọng thần Tinh Thiều, Phạm Tu, Triệu Túc là hết sức xứng đáng. Việc phong hai tướng trẻ có công trong cuộc đánh đuổi giặc Lương là Tả tướng Triệu Quang Phục và Hữu tướng Phùng Thanh Hòa không chỉ là tầm nhìn xa mà còn là sự kế tục hài hòa của các thế hệ trong việc vận hành triều chính.

Khi đó, các vị trọng thần bao gồm cả đức vua Lý Nam Đế đều đã luống tuổi, việc chuẩn bị đội ngũ kế cận là hết sức cần thiết. Sau này, các nhà nghiên cứu đều thống nhất: Nếu không sớm phong tước vị cho các tướng trẻ, việc nước việc quân sau này sẽ gặp nhiều khó khăn.

Quả đúng như dự liệu, sau này, khi lui binh về động Khuất Lão, trong lúc lâm chung, Lý Nam Đế đã giao toàn bộ binh quyền cho vị tướng trẻ Triệu Quang Phục. Còn Hữu tướng Phùng Thanh Hòa, ông vâng mệnh vua về vùng An Hoa Trang tuyển mộ binh lương chẳng may bạo bệnh mất sớm, đây là một tiếc nuối lớn lao của lịch sử.

Với tài đức của Phùng Thanh Hòa, được phong Hữu tướng quân khi mới ngoài 20 tuổi, nếu không mất sớm, chắc chắn ông không phụ ơn vua lộc nước, sẽ có những đóng góp xuất sắc cho công cuộc đánh đuổi giặc Lương, giữ gìn nền độc lập dân tộc mà cha anh đã tốn máu xương để giành lấy.

Khi ổn định triều chính nhà nước Vạn Xuân, Thái sư Tinh Thiều hiểu sâu sắc rằng sẽ phải đối đầu với không chỉ đạo quân hùm sói của phương Bắc mà là cả hệ tư tưởng của chúng chuyên đi đàn áp, áp đặt các thiết chế chính trị với người phương Nam.

Chúng ngàn đời chỉ coi các vùng đất An Nam là châu quận của chúng, phải nộp tô thuế cho chúng, phải quỳ lạy vua chúa của chúng. Trong công cuộc tự chủ đầy khó khăn gian khổ, Đức ngài Lý Bí  (Lý Bôn) lên ngôi Đế chính là cái tát nảy lửa vào triều đình phong kiến phương Bắc lúc bấy giờ.

Xác định việc lập nước Vạn Xuân, xây chùa Trấn Quốc, nối nền quốc thống từ thuở các vua Hùng dựng nước, Lý Nam Đế và các bậc đại thần đã xác định rõ ràng: Phải chiến đấu đến cùng với người phương Bắc.

Đây là ý thức dân tộc rất mãnh liệt thể hiện tinh thần quật cường của người phương Nam vốn khao khát tự chủ và độc lập dân tộc. Đây cũng là điểm mấu chốt của mâu thuẫn giữa người phương Bắc và người phương Nam, là nguồn cơn của các cuộc chiến tranh trước, trong và sau triều đại Lý Nam Đế.

Biết trước sự thể như vậy, Thái sư Tinh Thiều một lòng một dạ đem hết trí tuệ và niềm tin của mình tham mưu giúp vua giúp nước. Dã tâm của Lương Vũ Đế, dã tâm của Dương Phiêu, đặc biệt là Trần Bá Tiên là sẵn sàng đánh đổi tất cả để cướp nước người, áp đặt sự đô hộ phi lý, tàn sát các dân tộc khác, những tội danh kim cổ bất dung.

Khi đại binh của gian hùng Trần Bá Tiên sang đánh nước ta, không quản thân mình là quan văn, Thái sư Tinh Thiều luôn có mặt ở đầu chiến tuyến và đã hi sinh lẫm liệt ở cửa thành sông Tô Lịch cùng các lão tướng Phạm Tu, Triệu Túc. Tấm gương hi sinh vì đất nước đó còn tỏa rạng khí phách của bậc danh nho tới hôm nay.

Rất tiếc, không có thông tin về đền thờ riêng của nhị vị anh hùng thời Vạn Xuân đến thời điểm này.

Nguồn: Đại Đoàn Kết

Ths Nguyễn Thy Ngà
Trở về đầu trang
   Vua Lý Nam Đế danh tướng Triệu Túc danh nho Tịnh Thiều Vạn Xuân
0   Tổng số:

Các tin khác

  • Đình Thanh Sơn, thờ phụng Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát và Châu Lan Đại vương
  • Nghệ thuật kiến trúc đặc sắc của Đình đá Tiên Phong
  • Hà Nam: Đình Quan Phố đón nhận Bằng xếp hạng Di tích cấp quốc gia
  • Đình Quan Phố và những nét kiến trúc nghệ thuật độc đáo
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật
  • Di tích đền phủ Ninh Xá ở Nam Định nơi lưu giữ 28 đạo sắc phong
  • Đình Nghĩa Chỉ, Tiên Du, thờ phụng Phùng Hưng và hai vị thủy thần
  • Đình, nghè Mai Động, thờ phụng Đô úy Tam Trinh triều Nhị vua Hai Bà Trưng
  • Đình Tây Đằng – Bảo tàng nghệ thuật kiến trúc thế kỷ 16
  • Di tích phòng tuyến sông Như Nguyệt - Địa danh gắn với chiến thắng lịch sử chống quân Tống
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Long An phát triển du lịch qua di tích lịch sử - văn hóa

    165
  • Quảng Nam: Tây Giang hướng đến phát triển du lịch xanh

    121
  • Hải Dương: Phường rối nước Thanh Hải được công nhận là điểm du lịch

    118
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật

    113
  • Cung đường mới - động lực lớn cho phát triển du lịch hồ Ba Bể (Bắc Kạn)

    107

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2025 Trang thông tin du lịch