Một trong số những ngôi đình độc đáo về kiến trúc, điêu khắc là đình Lâu Thượng, thuộc địa phận xã Trưng Vương, thành Phố Việt Trì, Phú Thọ (Vĩnh Phú cũ). Đây là ngôi đình cổ vừa có giá trị về kiến trúc, vừa mang giá trị chạm khắc tiêu biểu cho TK XVII ở miền Bắc Việt Nam.
Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc đình làng là một trong những
giá trị lịch sử của nghệ thuật tạo hình dân gian Việt Nam. Ở Phú Thọ, ước tính
khoảng hơn 200 ngôi đình, trong đó có hơn 100 ngôi đình được xếp hạng di tích
quốc gia.
Một trong số những ngôi đình độc đáo về kiến trúc, điêu khắc
là đình Lâu Thượng, thuộc địa phận xã Trưng Vương, thành Phố Việt Trì, Phú Thọ
(Vĩnh Phú cũ). Đây là ngôi đình cổ vừa có giá trị về kiến trúc, vừa mang giá trị
chạm khắc tiêu biểu cho TK XVII ở miền Bắc Việt Nam.
1. Đôi nét về đình Lâu Thượng
Đình Lâu Thượng được xây dựng từ lâu, nhưng rất tiếc không
có niên đại xây dựng, không có bia ký, bút tịch, mà chỉ theo lời các cụ trong
làng kể lại rằng: người thợ mộc đến đây làm đình, lấy vợ sinh con, ăn mít trồng
hột, mít ra quả, đình mới làm xong.
Ngôi đình này do các hiệp thợ từ nơi khác đến làm (không rõ ở
đâu) vậy nên nghệ thuật tạo hình ít nhiều cũng có sự giao lưu và tiếp biến với
các ngôi đình ngoài khu vực.
Đình Lâu Thượng nằm trên một quả đồi thấp, thuộc xóm Mai, đồi
Lâu Thượng. Đình trông về hướng Nam, xung quanh có xóm làng đông đúc, có sơn thủy
hữu tình. Trước đình là: vườn cây Bác Hồ, sau đình là: miếu vật, hai bên đình
là: trường cấp I, phía đông đình cách sông Lô khoảng 1km, phía bắc cách thành
phố Việt Trì khoảng 4km.
Thông qua những số liệu ghi chép trong hồ sơ di tích tại
phòng văn hóa địa phương cũng như chứng kiến thực địa tại di tích này cho thấy
làng Lâu Thượng phía tả giáp Lô giang, phía hữu giáp Thao giang, đời nhà Hùng lấy
nơi này xây cung điện cho các vương tử, vương tôn ở, vì thế đời sau gọi là làng
Lâu Thượng.
Làng Lâu thượng hiện có một ngôi đình, xuất phát làm hậu
cung từ đời nhà Lý (Lý Nhân Tông), khởi công năm 1076, đến năm cuối năm 1105 bắc
nóc, chữ Hán Nôm có ghi lại rằng: “1076 khởi công đại tu” đến năm: “1105 thụ trụ
thượng lương”. Vậy giai đoạn từ khởi công đến bắc nóc mất khá nhiều thời gian.
Bức hoành phi trong đình có ghi: “Thánh cung vạn tuế” (dịch
nghĩa: Cung Thánh trường tồn), hai câu đối treo trong đình là: “Ức niên hách dịch
oanh linh địa. Vạn thế y quan lễ nhạc thiên” (nghĩa là: Ngàn năm oai nghiêm vang
danh linh địa, Vạn thủa tôn vinh lễ nhạc trời. Sang đến đời Lê Hiển Tông năm thứ
3, vào năm 1743 (thời Lê Hiển Công), đình được trùng tu lớn.
Đời nhà Nguyễn tiếp tục tu bổ, trên câu đầu của Đình có ghi:
“Tự Đức ngũ niên Cửu nguyệt sơ thập nhật Thụ trụ thượng lương” (tức là ngày 10
tháng 9 bắc nóc), lần thứ 2 đời Tự Đức sửa hậu cung và đại bái vào ngày 6 tháng
8 năm Nhâm Tý. Lần thứ 3 đời Tự Đức tu sửa nội điện, ghi ở hai đầu cột giữa đại
bái và hậu cung: “Quý mão niên lý tác nội điện thượng hạ tứ vị, tứ giáp Đồng tự
hậu ý khởi”. Năm Quý Mão, bốn giáp xây lại lại nội điện cho tứ vị Thánh.
Đời vua Khải Định năm thứ 2 (1917) đình được tu sửa. Ngày mồng
6/10 năm Đinh Mão, tức ngày 26/11/1987, sửa lại phần mái, chống dột.
Đến năm 1992, cây nóc gian giữa gãy, phải sửa lại. Lần thứ 7
đại tu tổng thể do sở VHTT tỉnh Phú Thọ chủ đầu tư, cây xà nóc giữa ghi: “Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam lục thập tam niên. Tuế thứ Mậu tý bát nguyệt nhị
thập tứ nhật thụ trụ thượng lương”. Ngày 28/9/2008, tháng 9, ngày đại cát đặt
thượng lương.
Đình thờ tứ vị nhân thần là: Cao Sơn Đại vương Quý Minh bảo
quốc đại vương, Ả nương Công chủ đại vương, Bình Khôi Công chủ đại vương và Như
Tuy đại vương, tức Nhị vua Trưng Trắc, Trưng Nhị. Hai vị thuộc dòng dõi Hùng
Vương. Tập hợp, rèn luyện quân cơ tại khu Bãi Dầu thuộc làng Lâu Thượng, Phát
thệ dấy cờ khởi binh đánh giặc Đông Hán, đuổi thái thu Tô Định tham tàn, bạo
nghịch, giành lại giang sơn Nam Việt.
2. Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc đình Lâu Thượng
Đình Lâu Thượng là ngôi đình có kiến trúc đồ sộ, kết cấu kiểu
chữ Đinh. Tám mái uốn đầu đao trang trí đầu rồng và những cụm vân mây mềm mại. Trên
bờ nóc trang trí lưỡng long quán nhật, bờ giải, bờ chảy gắn nghê múa. Sau nhiều
lần tu sửa, từ năm 2008, toàn bộ phần mái được lợp bằng ngói di.
Tòa Đại bái 5 gian 2 chái, chiều dài: 28m, chiều rộng kể cả
hậu cung là: 22m, bộ khung tòa nhà có 60 cột với đường kính cột cái đến 0,75 m,
đường kính cột quân 0,56 m được làm lại bằng gỗ lim sau lần trùng tu năm 2008.
Vì nóc thiết kế kiểu chồng rường giá chiêng, câu đầu được đặt
trên đầu hai cột cái bằng mộng chốt, bên trên đặt con rường dài qua đấu vuông
thót đáy, trên con rường là hai trụ trốn nối thẳng lên hoành mái thứ nhất đỡ
con rường bụng lợn, hai bên trụ trốn là 2 con rường.
Đỡ dưới câu đầu là hai đầu dư được chạm khắc đầu rồng ngậm ngọc.
Các vì nách thiết kế kiểu cốn chồng rường, những con rường chồng khít lên nhau
không dùng đấu kê tạo thành cổn cho chạm khắc trang trí”.
Liên kết hiên được làm kiểu kẻ suốt, ăn mộng từ thân cột
quân qua cột hiên đỡ dạ tàu mái. Các xà ngang ăn mộng với nhau tạo thành bộ
khung vững chắc.
Chạm khắc rồng
Trên mái đình trang trí lưỡng long quán nhật. Đầu nóc đắp đầu
rồng cách điệu, nghê múa gắn trên bờ giải, các góc đầu đao được đắp hình rồng.
Phần bao từ năm 2008 với cửa bức bàn mở vào bên trong, chấn song con tiện lấy
ánh sáng.
Đình được thiết kế kiểu lòng thuyền, đầu hồi bít đốc, nền lát
gạch bát vuông, sàn gỗ hai gian chái đình, dành cho các buổi hội họp.
Hậu cung 3 gian, ngăn cách với đại đình bằng hệ cửa bức bàn.
Cửa chính giữa chỉ được mở khi tổ chức lễ hội, còn hai bên mở cửa nhỏ để làm lối
đi.
Kết cấu khung nhà theo phong cách thời Nguyễn thế kỷ 19, vì kèo
nách kiểu cốn chồng rường với 5 con rường chồng lên nhau, không dùng đấu kê, tạo
thành mảng kín chạm khắc các hình tượng rồng, phượng, tứ linh, tứ quý, hoa lá
cách điệu.
Điêu khắc đình Lâu Thượng chia làm hai phần chính. Điêu khắc
tượng và chạm khắc trên cấu kiện gỗ. Đình có tượng thờ Nhị vua Hai Bà Trưng và
đôi tượng trang gắn ở trên cột.
Hai pho tượng thờ Nhị vua Hai Bà Trưng là tượng mới do tượng
cổ đã bị mất cắp được đặt trên gác lửng ở hậu cung. Bức tượng bên phải là tượng
thờ Thánh vương Trưng Trắc, bên trái là tượng thờ thánh vươngTrưng Nhị. Chân
dung hai vị chúa bà với khuôn mặt hiền từ, đầu đội mũ bình thiên, mắt nhìn thẳng,
miệng khẽ mỉm cười, tai to và dài như tai phật, tay phải cầm cầm hốt, tay trái
đặt lên đùi. Tượng ngồi nghiêm nghị trên long ngai, mặc áo dài rủ xuống màu
vàng, trang trí nhiều họa tiết trên thân áo.
Tượng gắn trên cột có 2 pho, pho bên trái tạc ngồi chân co chân
khoanh, mặc áo màu xanh lá mạ, quần màu xanh thẫm. Dung nhan hiền từ, râu tóc
dài, tay trái đặt lên đùi trái, tay phải đặt ở đùi phải, Tư thế thoải mái, đầu
hơi rướn về phía trước, đây có thể thể hiện tượng ông thiện.
Pho thứ hai ở bên phải là tượng người đàn ông cưỡi hổ. Tượng
mặc áo màu đỏ, đang phanh ra, quần màu xanh thẫm, chân đi giày, gương mặt khá dữ
với râu tóc ngắn, chân vắt lên nhau, phong thái oai phong. Hổ có những vệt vằn
vện, đầu ngoái ra phía trước, miệng gầm lớn.
Chủ đề chính trong các mảng chạm khắc là rồng cùng với các
linh vật như Phượng, Lân, Quy và những sinh vật đời thường khác như: thạch
sùng, khỉ, cá. Trong các mảng chạm khắc cũng mô tả cuộc sống đời thường như người
cưỡi ngựa, người đánh trống, người múa quyền, người uống rượu, người cưỡi hổ và
cả chân dung Quan Công cưỡi ngựa.
Hình tượng rồng được thể hiện trong các bức chạm như ổ rồng ổ,
đàn rồng. Rồng mẹ được chạm rất lớn, chơi đùa cùng đàn rồng con. Rồng được chạm
theo nhiều hình dạng khác nhau, mang phong cách đặc trưng cuối thế kỷ 19. Đặc
điểm chung là rồng được chạm khắc cách điệu, mặt rộng, tai to, mắt lồi, miệng rộng.
Một số đầu rồng được chạm răng nanh, móng vuốt sắc nhọn.
Theo kết cấu của chi tiết gỗ, một số hình thượng rồng được
chạm ở thế vươn ra, đầu dài, mũi to, miệng há, có sừng và bờm lửa hình đao mác .
Một số bức chạm đặc biệt ấn tượng với đầu rồng được chạm nhô hẳn ra phía trước,
bờm và râu chạm đao mác, thân rồng chạm vẩy.
Ngoài chủ đề rồng, các bức chảm khảm trang trí còn có những
cảnh sinh hoạt đời thường như cảnh đi săn. Người đi săn cưỡi ngựa hồng, ăn vận
giản dị, giơ tay như đang bắn cung. Đặc sắc nhất là bức Quan Công cưỡi ngựa với
hình người to hơn hẳn con ngựa, thể hiện sự kỳ vĩ của nhân vật. Hình ảnh Quan
Công có đặc trưng lông mày xếch, râu tóc dài, đầu đội mũ chiến, tay cầm đao, mặc
áo giáp chiến, chân duỗi thẳng và chân đạp lên mây, ngựa chiến cổ đeo chuỗi lục
lạc màu đỏ.
Một số bức chạm rồng và người cùng nhau như người quỳ uống
rượu, người chắp tay luyện võ, Nhị vua Hai Bà Trưng cưỡi voi xanh phất cờ khởi
nghĩa, hai người cưỡi rùa.
Đình Lâu Thượng là ngôi đình có giá trị cao về kiến trúc và
nghệ thuật tạo hình, mang đậm phong cách trang trí cuối thế kỷ 17 ở Việt Nam. Dù
đình Lâu Thượng được trùng tu rất nhiều lần song người dân đã cố gắng giữ gìn kết
cấu mang phong cách cổ xưa, các mảng chạm khắc nguyên vẹn, làm nổi bật giá trị
tâm linh của một ngôi đình có bề dầy lịch sử.
Tham khảo:
Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, Đình làng vùng châu thổ Bắc
Bộ, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2013, tr.364.
Tạp chí VHNT số 403, tháng 1 - 2018
Tác giả : Cao Thị Vân
Nguồn: Tạp chí Văn hóa Nghệ Thuật