Toạ lạc trên sườn đồi, đình Tây Đằng thuộc thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, Hà Nội, nhìn hướng núi Tản Viên hùng vĩ. Đình thờ phụng Tản Viên Sơn Thánh, vị thần đứng đầu trong “Tứ bất tử” của tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
Đình Tây Đằng – Một di sản kiến trúc văn hóa còn mãi với thời
gian
Là một trong những ngôi đình cổ nhất Việt Nam, Đình Tây Đằng
đã ngót 500 năm tuổi, được xây dựng vào thời nhà Mạc năm Đại Chính nhị niên
(1531). Đình thờ Đức Thánh Tản Viên Đệ Nhất Phúc Thần.
Ngôi đình tọa lạc trên khuôn viên rộng lớn, nhìn hướng Nam
chếch Tây trông về đền Đức Thánh Tản trên núi Ba Vì. Đi qua cổng chính là hồ tụ
thủy. Tiếp đến là nghi môn kiểu cổ truyền, gồm bốn trụ biểu, hai cột phụ đỉnh đắp
nghê chầu, hai cột chính đắp tứ phượng. Dáng trụ thanh thoát và nghệ thuật rất tinh xảo, nhưng hai trụ biểu phụ còn thô lược.
Hai phía bên phải và bên trái là tả vu và hữu vũ. Hạng mục
công trình này nhằm làm những công việc chuẩn bị cho việc khánh tiết. Nhà tả vu
và hữu vu mới được dựng lại. Đầu hồi phía phải của ngôi đình là một giếng cổ,
nguồn nước đá ong bốn mùa trong xanh. Giếng này trước đây nằm ngoài hàng rào của
khuôn viên đình, nay mới được đưa vào trong, làm cho ngôi đình càng thêm linh
diệu hơn. Sau nghi môn là sân đình rộng thoáng.
Giếng nước cổ ở đầu hồi bên phải Đình Tây Đằng
Hai bên sân là hai nhà Tả, Hữu mạc đối diện nhau. Mỗi nhà có kết cấu ba gian hai dĩ, kiểu chồng rường giá chiêng, phía bên ngoài làm theo lối chồng diêm hai tầng tám mái. Các đạo đình làm cong hình đầu rồng. Mái lợp ngói mũi hài. Toà nhà này được xây dựng năm Canh Thân dưới triều vua Tự Đức (1960).
Toà Đại đình làm kiểu chữ “nhất”, gồm ba gian hai dĩ. Các bờ nóc, bờ dải đắp cao và trang trí một đường gạch hoa chanh. Hai bờ nóc đao đình có hai con kìm. Bốn đầu đao và giữa các bờ dải đắp nổi một con lân. Bộ khung nhà được lắp đặt chắc chắn trên các hàng chân cột to, tròn chu vi từ 2,20m - 1,55m.
Hai bên sân có tả mạc, hữu mạc dẫn vào đại đình. Trước đây,
thềm đại đình chỉ cao khoảng 40 cm đủ một bước chân, sau khi trùng tu, thềm đã
được nâng thành bậc tam cấp cao 75cm. Sàn đình rộng 360m2, được bố cục kiểu 3
gian với sáu hàng cột: Hai cột cái, hai cột quân và hai cột con, nét đặc trưng
của những ngôi đình cổ.
Tất cả các cột đều theo lối “thượng thu hạ thách” kiểu dáng
bông đòng đòng, đặt trên chân tảng đá ong. Tất cả các cột quân và cột con đều
có xu hướng choãi ra, tạo thế mở rộng vùng chân đế và hạ thấp trọng tâm của
ngôi đình nhằm tăng độ ổn định, bền vững cho công trình. Đỡ thượng lương là giá
chiêng chồng rường kiểu “chồng nhị”.
Gian chính giữa đình là bàn thờ Đức Thánh có cửa võng, y
môn, lọng che, hai giàn bát bửu và đôi hạc chầu. Gian thờ quanh năm đóng cửa,
trừ những ngày lễ hội, nhưng do đông khách thăm viếng nên gian thờ lúc nào cũng
nghi ngút khói hương, không khí thật trang nghiêm! Các gian hai bên còn lại được
bố trí sạp ngồi của các quan viên trong những ngày lễ hội hay khi việc làng. Kết
cấu được giữ nguyên theo kiểu nhà sàn của người Việt cổ vùng sơn cước.
Khác biệt của đình Tây Đằng so với các ngôi đình còn lại là
thông phong, không có tường bao và bền vững với thời gian. Do đình thấp nên người
Việt cổ đã chọn kết cấu rất sáng tạo, mặc dù không có quá giang: Liên kết cột
cái với cột cái là câu đầu, cột cái với cột quân là xà nách. Trên xà nách là chồng
rường tạo độ dốc cho mái. Kẻ liền bẩy kéo dài từ cột quân vươn dài đến tàu mái.
Hệ thống xà thượng, giằng đầu các cột cái, cột quân và cột con lại với nhau
theo chiều dài của ngôi đình.
Cột con đỡ thẳng vào bẩy không qua ngàm, như vậy tạo cho bẩy
không bị tiết diện giảm yếu khi liên kết với cột con làm cho công trình vững chắc
hơn. Bí quyết để cấu trúc công trình được ổn định và bền vững là ở chỗ dùng mộng
thắt đuôi én, ngoàm và nêm chắc đầu cột cũng như các cột quân, cột con choãi
chân thang ra ngoài. Do đặc tính của công trình như vậy nên ngay cả sau khi đã
tháo toàn bộ sạp và các xà chân cột, ngôi đình vẫn vững vàng cùng năm tháng.
Nghệ thuật chạm khắc trang trí đa dạng và đặc sắc
Đình Tây Đằng có tới 1.300 họa tiết được chạm khắc hết sức
tinh xảo, đậm nét tài hoa của những con người làm ra nó. Nét đặc biệt có một
không hai của ngôi đình này là không một chi tiết nào giống nhau, từ họa tiết kẻ
liền bẩy bốn góc, kẻ liền bẩy vì chính, đến các đầu dư đầu duôi, xà thượng, các
chồng rường, bát đỡ, câu đầu, chếnh xối, ván nong… đều là những tác phẩm nghệ
thuật kiệt tác.
Một số họa tiết trang trí gỗ trên vỉ kèo Đình Tây Đằng
Mỗi hoa văn một kiểu, các họa tiết hoa văn mang tính đặc sắc
của các vùng miền văn hóa khác nhau như: Họa tiết người nông dân trồng cấy lúa
của vùng đồng bằng Bắc Bộ, quăng chài bắt cá của vùng sông nước miền duyên hải,
đua thuyền của Nam Bộ, chơi đàn tính của đồng bào Tày Nùng, voi chầu của vùng
Tây Nguyên, ngựa hý của vùng cao, đấu vật kéo co trong ngày lễ hội mang màu sắc
dân gian, cá vượt vũ môn hóa rồng, bộ tứ linh, trời mây hoa lá rất phong phú,
có tới vài chục nữ thần cưỡi mây bay lượn trên bầu trời.
Các nữ thần được bố trí trên các đầu duôi khắp bốn phía sát
mái đình, hình tượng các nữ thần đầu quấn khăn như những Apxara, cũng với hình
tượng Bà Banh mang ý nghĩa phồn thực đậm phong cách của các nghệ nhân Chămpa.
Nghệ thuật Chămpa không chỉ thấy riêng ở đình Tây Đằng mà còn gặp ở đình Yên Bồ
cũng gần đấy.
Bà Banh đình Tây Đằng đặt ở con chồng nằm trên vị trí xà
nách. Bà Banh ở đình Yên Bồ đặt trên giữa thượng cung, phía trước bài vị Thành
hoàng làng, gây một cảm giác tín lễ của phong tục Chăm, cùng với chiếc gậy hỉ.
Khi người nào hiếm con trai đều đến xin cầu tự ở đây. Thể thức tín ngưỡng này
giống như Linga và Yoni nguyên bản vùng tháp Chàm và Tây Nguyên.
Một số mẫu điêu khắc
Năm 2005, Bộ Văn hóa đã chủ trì việc trùng tu ngôi đình. Cột
gỗ mít và thông đỏ được thay thế bằng gỗ lim, các chân tảng bằng đá ong được
thay bằng đá xanh. Chỉ còn một vài cột cái, cột quân và một phần cột con là cố
giữ lại. Các họa tiết đặc biệt quý hiếm của đình Tây Đằng vẫn được bảo tồn
nguyên giá trị vốn có. Việc trùng tu đã đảm bảo kĩ thuật tốt, đảm bảo độ vững
chãi của ngôi đình.
Tiếc rằng, toàn bộ các cột được thay thế chỉ giữ lại được phần
thượng thu hạ thách, còn dáng kiểu bông đòng đòng thì đã không còn, nên phần
nào xa cách với di sản xưa.
Đình Tây Đằng là một tác phẩm nghệ thuật kiến trúc văn hóa đặc
biệt độc đáo, đầy ắp các di vật quý giá cả về văn hóa, lịch sử vật thể lẫn phi
vật thể. Đình còn lưu giữ nhiều di vật quý gồm: 1 sập thờ bằng gỗ sơn son. Đôi
hạc gỗ, 1 hương án sơn son thếp vàng, chạm lộng đề tài hổ phù, tứ linh, hoa lá,
niên đại thế kỷ XVII. Bức cửa võng, bức đại tự Hiển vu tây thổ, 4 cỗ kiệu, 3 cỗ
long ngai và một số đồ thờ tự khác, chất liệu bằng đồng, gốm.
Với những giá trị văn hóa, kiến trúc, chạm khắc, tài hoa, sống
động, đình Tây Đằng như một bảo tàng nghệ thuật của thế kỷ 16 và là di sản văn
hóa kiến trúc độc nhất vô nhị của tổ tiên ban tặng cho các thế hệ con cháu muôn
đời sau.
Đình Tây Đằng đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di
tích văn hóa, nghệ thuật cấp quốc gia, theo Quyết định số 29/VH- QĐ ngày 13/1/1964.
Đình cũng được Nhà nước xếp hạng là Di tích quốc gia Quốc gia đặc biệt theo quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 9/12/2013.
KTS Nguyễn Địch Long
Nguồn: Tạp
chí Kiến trúc số 05-2016