Chùa Keo Hành Thiện tọa lạc tại thôn Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, cách thành phố Nam Định khoảng 40km về hướng Đông Nam.
Chùa Keo Hành Thiện là ngôi chùa có giá trị đặc biệt về kiến
trúc nghệ thuật, được Toàn quyền Đông Dương liệt hạng cổ tự từ năm 1925, Bộ Văn
hóa (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) xếp hạng chùa là di tích quốc gia
năm 1962. Năm 2013, Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo
quyết định số 2499/QĐ-TTg ngày 22/12 /2016.
Chùa Keo Hành Thiện, gồm Chùa Keo trong (Thần Quang tự), Chùa Keo ngoài (Đĩnh Lan tự),
Chùa Keo Hành Thiện thờ tự theo kiểu “tiền Phật, hậu Thánh”,
ngoài thờ Phật còn thờ Đức Thánh tổ, Thiền sư Dương Không Lộ, một nhân vật lịch
sử có công lớn đối với vương triều Lý, được vua Lý phong làm Quốc sư kiêm Đại
pháp sư.
Nhân dân ở nhiều vùng thờ phụng, tôn vinh Thiền sư do có
công lao dẹp loạn, diệt ác quỷ quấy nhiễu dân lành, dạy dân nghề đánh cá, trồng
lúa, đúc đồng, đan lát. Người dân làng Hành Thiện thờ phụng Thiền sư Dương
Không Lộ do ngài là sư tổ sáng lập chùa, vị Phúc thần, Thành hoàng làng, đã có
công lao khai sáng và tạo lập làng Hành Thiện.
Chùa Keo Trong ban đầu có tên là chùa Nghiêm Quang, sau đổi
là chùa Thần Quang, do Đức Thánh tổ Dương Không Lộ cho xây dựng vào năm Tân Sửu
(1061), đời vua Lý Thánh Tông. Trải qua nhiều thế kỷ tồn tại, đến thời Hậu Lê,
vào năm Mậu Tý (1588) và Tân Hợi (1611), nước sông Hồng dâng cao, gây vỡ đê, lụt
lớn, làng mạc bị cuốn trôi. Chùa Keo cùng nhiều đình chùa, miếu mạo trong
vùng đã bị vùi lấp.
Sau sự kiện đó, nhân dân vùng Keo phải chuyển đi hai nơi, tạo
lập làng mới. Một phần dời sang tả ngạn sông Hồng lập làng Dũng Nhuệ (nay là xã
Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình), phần còn lại chuyển đến vùng hữu ngạn
sông Hồng lập nên làng Hành Cung sau đổi tên là làng Hành Thiện.
Người Dân cả hai nơi đều hưng công xây dựng ngôi chùa mới,
có chung phong cách thờ tự “tiền Phật, hậu Thánh”, đồng thờ Thiền sư Dương
Không Lộ và mang tên cũ là chùa Keo (Thần Quang tự).
Tấm bia cổ nhất tại chùa “Tu tạo Thần Quang tự bi ký” soạn
vào ngày 25 tháng 8, niên hiệu Hoằng Định 13 (1613) xác nhận chùa Thần Quang đã
được xây dựng vào thời điểm này. Đến nay, chùa đã trải qua rất nhiều lần trùng
tu, tôn tạo.
Toàn cảnh chùa Keo Hành Thiện
Chùa Keo Hành Thiện nằm gần rìa phía Bắc của làng Hành Thiện (gần
cuối “Đuôi cá”), trên khuôn viên có diện tích không lớn, khoảng 3600m2, quay mặt
về hướng Đông Bắc. Chùa là một tổng thể phức hợp của các đơn nguyên kiến trúc
phân bổ theo đường thần đạo trên khuôn viên hình chữ nhật kiểu “nội công, ngoại
quốc”, bao gồm: Tam quan ngoại, Tam quan nội kiêm gác chuông, phủ Mẫu, nhà hành lang, chùa Phật, đền Thánh, nhà ký đồ,
nhà tổ, nhà oản, nhà bếp. Tổng cộng có 13 tòa nhà, 119 gian, những hạng mục mới
xây dựng và tôn tạo sau này đưa tổng thể lên tới 17 tòa nhà, 149 gian.
Các tòa nhà ở chùa có kiểu dáng kiến trúc khác nhau, phù hợp
với công năng sử dụng. Giá trị nổi bật về kiến trúc của ngôi chùa là Tòa Tam
quan nội - gác chuông và đền Thánh.
Tam quan ngoại
Tam quan ngoại xây kiểu tường hồi bít đốc, dài 7,60m, rộng 6,90m, cao 5,60m, gồm 3 gian: gian giữa rộng 3,30m, hai gian bên rộng 2,15m. Bộ khung chịu lực của tam quan được kết cấu với 4 bộ vì kiểu 3 hàng chân cột; kết cấu vì gỗ được liên kết bởi các trụ, xà, con rường, bẩy hiên, phía trên là hệ thống hoành, rui gỗ, mái lợp ngói di nhỏ. Theo phong cách xây dựng và đặc biệt là dòng chữ Hán khắc trên cấu kiện mái, Tam quan được xây dựng lại vào đầu thế kỷ 20.
Tam quan ngoại và hồ Bán nguyệt phía trước chùa Keo Trong (chùa Thần Quang)
Tam quan nội với chức năng gác chuông l bảo lưu đuợc nhiều kết cấu có từ thế kỷ XVII. Tam quan được xây sát đường, bên cạnh hồ chữ nhật. Tam Quan nội dài 12m, rộng 6,55m, 3 gian 2 chái, hai tầng, chồng diêm 8 mái thanh thoát, mái uốn đầu đao, bờ cánh kẻ bẩy uốn lượn. Trên các cấu kiện gỗ được trang trí các phù điêu mang đậm phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê.
Mặt trước Tam quan nội kết hợp Gác chuông, chùa Keo Trong (chùa Thần Quang)
Mặt sau Tam quan nội kết hợp Gác chuông, chùa Keo Trong (chùa Thần Quang)
Phối cảnh Tam quan nội kết hợp Gác chuông, chùa Keo Trong (chùa Thần Quang), Hành Thiện, Nam Định
Bên trong Tháp chuông với chuông và chiêng đồng, chùa Keo Trong (chùa Thần Quang)
Chùa Phật: cách Tam quan nội một khoảng sân gạch, kết cấu theo kiểu chữ “Công” gồm 3 toà: Tiền đường 5 gian, Thiêu hương 3 gian, Thượng điện 3 gian mái cong. Chạm khắc với đề tài chủ đạo là rồng trên các cấu kiện kẻ hiên, xà nách, xà đùi, vì nách Tiền đường, lân được thể hiện trên nóc mái (vị trí đầu kìm) của tòa Thượng điện, phượng được thể hiện trên kẻ hiên và vì nách toà Tiền đường. Ngoài ra, trên các cấu kiện gỗ như đầu kẻ, bẩy, con rường… còn trang trí các đề tài vân xoắn, chữ “thọ”, đao mác, tứ linh, tứ quý…
Khu thờ Phật, phía sau là Khu thờ Thánh, dọc hai bên là hành lang, chùa Keo Trong (chùa Thần Quang)
Tòa Bái đường Khu thờ Phật (hai cổng ngách mới xây thêm). Những cái lỗ trên các cối đá giữa sân là nơi cắm lọng cho ngày lễ hội.
Khu thờ Phật, phía sau là Khu thờ Thánh, chùa Keo Trong (chùa Thần Quang)
Khu thờ Phật, nhìn từ phía sau, tòa Thượng điện và sân trước Khu thờ Thánh, chùa Keo Trong (chùa Thần Quang)
Ban thờ Phật trong Thượng điện, chùa Keo Trong (chùa Thần Quang)
Đền Thánh: cách tường hậu Thượng điện chùa Phật một khoảng sân rộng hơn 10m. Đền cũng kết cấu theo kiểu chữ “Công”, gồm 3 toà: Tiền đường 5 gian, Trung đường 3 gian và Hậu cung 3 gian. Với các mảng chạm khắc tinh xảo tập trung trên các mảng đố lụa, khung bạo, con rường, kẻ, bẩy của từng tòa. Đặc biệt chú ý là 3 bộ cánh cửa gồm 10 cánh ngăn cách giữa tiền đường và trung đường được chạm khắc, thể hiện 10 đề tài khác nhau. Kỹ thuật chạm gỗ bong kênh ở cả hai mặt tiền 2 gian toà tiền đường đạt tới trình độ cao. Đề tài chạm khắc ở đây phong phú: rồng, lân, hoa cúc - mặt trời, phượng, vân xoắn, sừng tê ngọc báu, tứ linh, tứ quý… mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII.
Khu thờ Thảnh ra phía cổng, chùa Keo Trong (chùa Thần Quang)
Nhà Ký đồ: nằm sát ngay sau đền Thánh, trước nhà Tổ, nhà oản và nhà bếp. Nhà là nơi để các đồ lễ và các vật dụng chủ yếu phục vụ cho lễ hội, có mặt bằng hình chữ Nhật, dài 7,50m, rộng 5,21m, gồm 3 gian.
Hành lang: gồm hành lang tả và hữu, đăng đối qua trục thần đạo, đối xứng hai bên chùa Phật, đền Thánh, nhà Ký đồ, mỗi dãy có 38 gian, nối liền từ Tam quan nội kiêm gác chuông, dọc theo chiều sân, nối với khu nhà Tổ, nhà oản, nhà bếp, tạo thành hệ thống tường bao bọc các công trình thành tổng thể “nội công, ngoại quốc”. Mỗi dãy hành lang dài xấp xỉ 86 m, rộng hơn 3m.
Nhà Tổ: nối vuông góc với hành lang hữu và nhà oản, nhà bếp. Cùng với nhà oản, nhà bếp. Nhà Tổ có mặt bằng hình chữ Nhật, gồm 3 gian, dài 6,30m, rộng 6,10m. Nền nhà Tổ chung một cấp với hành lang, lát gạch bát theo mạch chữ Công.
Nhà oản, nhà bếp: nối liền với nhà Tổ theo chiều ngang, gồm 3 gian, có kích thước dài 6,25m, rộng 4,15m. Nhà bếp gồm 4 gian, có kích thước dài 8,90m, rộng 4,15m.
Phủ Mẫu: nằm phía ngoài Tam quan nội kiêm gác chuông, sát cổng phía Tây, được dựng lại vào đầu thế kỷ XX. Phủ Mẫu hiện nay là sản phẩm của lần trùng tu, tôn tạo chùa Keo vào năm 2008, 2009, mặt bằng hình chữ Nhật, gồm 5 gian (3 gian 2 chái), có kích thước dài 10,70m, rộng 6,70m, bằng gỗ lim. Bộ khung được dựng trên 4 hàng cột (cột cái có đường kính 30cm, cột quân có đường kính 25cm.
Nhà khách: sát với phủ Mẫu, 5 gian, dài 11,50m, rộng 4,75m, kết cấu đơn giản theo lối tường hồi, bít đốc.
Nhà trải: nằm trong khuôn viên sân, vườn, gồm 10 gian, dài 38m, rộng 4,70m, xây theo lối tường hồi, bít đốc.
Chạm khắc gỗ trang trí tại chùa Keo Trong (chùa Thần Quang)
2. Chùa Keo ngoài (Đĩnh Lan tự): ngoài thờ Phật còn thờ Bồ tát Quan âm Nam Hải, được xây dựng muộn hơn so với chùa Keo trong. Theo Hành Thiện xã chí thì chùa Keo ngoài được xây dựng từ năm Đinh Mùi, niên hiệu Chiêu Thống nguyên niên (1778). Đến triều Nguyễn, niên hiệu Minh Mệnh 13 (1832), dân làng xây dựng gác chuông. Năm Tự Đức thứ 18 (1865), Phó bảng Đặng Kim Toán - người làng Hành Thiện, làm Án sát Ninh Bình đã hưng công trùng tu lại chùa với quy mô lớn.
Tam quan chùa Keo Ngoài (chùa Đĩnh Lan)
Năm Tân Sửu, niên hiệu Thành Thái 13 (1901), Tri huyện Nguyễn Ngọc Quỳnh - người làng Hành Thiện, cùng dân làng dựng thêm hai dãy hành lang. Năm Đinh Mùi, niên hiệu Duy Tân nguyên niên (1907), quan huyện Nguyễn Đôn Thi hưng công sửa cây đèn và gác chuông, đến năm Mậu Ngọ, niên hiệu Khải Định 3 (1919), ông lại hưng công làm mái cúng trước chùa và Nhà thờ Tổ.
Qua thời gian do thời tiết khắc nghiệt, chiến tranh tàn phá, chùa xuống cấp, từ năm 1990, dân làng Hành Thiện đã nhiều lần tiến hành trùng tu, tôn tạo: trùng tu Hành lang phía Đông (năm 1990), trùng tu Hành lang phía Tây (năm 1994), trùng tu Gác chuông, xây cổng, tường và cây đèn (năm 2000), xây kè hồ nước phía trước chùa (năm 2004)...
Chùa toạ lạc trên một khuôn viên có diện tích 1 mẫu Bắc Bộ, mặt quay về hướng Đông Bắc, với kết cấu mặt bằng kiểu “nội công, ngoại quốc”, gồm: Tam quan, Tả/hữu hành lang, Chùa chính, gác chuông và nhà Tổ, trong đó, công trình có giá trị kiến trúc nghệ thuật cao là Chùa chính và gác chuông.
Tòa Bái đường, chùa Keo Ngoài (chùa Đĩnh Lan)
Chùa chính: mặt bằng kiểu chữ Công, gồm: Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện. Tòa Tiền đường 5 gian (3 gian 2 chái) dài 10,30m, rộng 3,80m. Bộ khung bằng gỗ lim kiểu 4 hàng chân cột, mỗi vì gồm 2 cột cái và 2 cột quân. Bao quanh công trình kiến trúc là hệ thống ván bưng, đố lụa bằng gỗ lim.
Tòa Thượng điện, phía trước là Bái đường, bên trái là Gác chuông, chùa Keo Ngoài (chùa Đĩnh Lan)
Nối tiếp với Tiền đường qua hệ thống cửa đến hai gian Thiêu hương, dài 10m, rộng 3,90m. Đây là hạng mục kiến trúc được liên kết theo dạng ống muống để nối Tiền đường với Thượng điện. Bộ khung thiêu hương có 4 hàng chân cột với các bộ vì kiểu chồng rường. Nối với Thiêu hương là Thượng điện, dài 6m, rộng 4m, chia thành 3 gian (1 gian 2 chái), kiến trúc tương tự như tòa Tiền đường.
Ban thờ Phật trong tòa Thượng điện, chùa Keo Ngoài (chùa Đĩnh Lan)
Gác chuông, chùa Keo Ngoài (chùa Đĩnh Lan)
Gác chuông: nằm về phía sau Thượng điện 1,60m, dựng trên nền đất cao hình chữ Nhật với kích thước 6,70 m, rộng 5m, được làm bằng gỗ lim, kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái. Phần chịu lực chính của công trình đặt vào 2 cột cái có kích thước cao 3,90m, đường kính 30cm, xung quanh có 10 cột quân, đường kính 20cm.
Trang trí tập trung vào các vị trí ở phía trên các khung đố lụa của vách thuận, cùng các cấu kiện: ngưỡng địa, ngưỡng trung, ngưỡng bát, ván bưng, đố của hệ thống cửa mặt ngoài toà tiền đường, thể hiện sinh động các đề tài: mặt trời, rồng, đao mác... mang phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê, thế kỷ XVIII.
Ngoài giá trị tiêu biểu về kiến trúc nghệ thuật, cảnh quan, khu di tích chùa Keo hiện còn lưu giữ được nhiều hiện vật thuộc các chất liệu như: gỗ, giấy, vật đá, gốm sứ, đồng… Trong số đó, có nhiều hiện vật mang giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hoá, khoa học và thẩm mỹ của nhiều giai đoạn khác, như: hệ thống tượng pháp, bia ký, sắc phong, nhang án, kiệu, chuông, khánh, hoành phi, câu đối…
Khu di tích chùa Keo Hành Thiện là một tổng thể các công trình kiến trúc có quy mô lớn, được xây dựng đăng đối, mang đậm phong cách kiến trúc thời Hậu Lê, thế kỷ XVII - XVIII. Sự tồn tại của chùa Keo góp phần minh chứng cho lịch sử hình thành và phát triển của tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam. Chùa Keo có giá trị kiến trúc nghệ thuật, trang trí điêu khắc cao, thể hiện bàn tay lao động cần cù và khối óc sáng tạo của những công trình sư và nghệ nhân dân gian, góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu lịch sử mỹ thuật Việt Nam.
Khu di tích chùa Keo Hành Thiên còn lưu giữ được nhiều giá trị di sản văn hoá phi vật thể quý giá thể hiện qua hệ thống thác bản Hán Nôm (bia ký, sắc phong, thần tích, câu đối, đại tự…), Lễ hội truyền thống, những truyền thuyết về Đức Thánh Dương Không Lộ… Đây là những nguồn tư liệu phong phú, hấp dẫn và quý báu giúp các nhà nghiên cứu khoa học lý giải và nhận diện giá trị to lớn của các di tích này đối với hệ thống di sản văn hoá của dân tộc. Hàng năm, tại chùa Keo Hành Thiện diễn ra nhiều ngày lễ liên quan đến Phật, Đức Thánh tổ, các vị thần làng, hậu thần được thờ phụng tại đây, trong đó có 2 kỳ lễ trọng diễn ra vào mùa Xuân và mùa Thu. Lễ hội mùa Xuân được tổ chức vào 2 dịp: tháng Giêng đối với chùa Keo trong và tháng Hai đối với Chùa Keo ngoài, với các nghi thức: dâng hương, rước kiệu, yến lão và trò chơi thổi cơm thi… Lễ hội mùa Thu được tổ chức vào trung tuần tháng Chín Âm lịch, đây là kỳ lễ hội lớn nhất trong năm để kỷ niệm ngày sinh của Đức Thánh tổ Dương Không Lộ. Tại lễ hội diễn ra nhiều nghi thức và trò chơi dân gian đặc sắc như: phụng nghinh, bơi trải, phục miều y, dựng phướn, rước đèn, Thánh đản, múa rối, chèo cạn, cờ tướng, cầu đu, chọi gà, làm bánh dầy…
Những sinh hoạt văn hóa nghệ thuật dân gian diễn ra trong lễ
hội mang đậm nét phong tục tập quán nền văn hóa lúa nước.
“Dù cho cha đánh mẹ treo,
Em không bỏ hội chùa Keo hôm Rằm”.
Lễ hội chùa Keo Hành Thiện là lễ hội lớn, tiêu biểu của tỉnh
Nam Định được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa
phi vật thể quốc gia.
Chùa Keo hiện lưu giữ được nhiều cổ vật mang giá trị cao về
lịch sử, văn hoá, nghệ thuật cổ của nhiều giai đoạn khác nhau. Đó là hệ thống
tượng pháp, bia ký, sắc phong, nhang án, kiệu, chuông, khánh, hoành phi, câu đối,
truyền thuyết về Đức Thánh tổ Dương Không Lộ được lưu truyền trong dân gian.
Đây là những nguồn tư liệu phong phú, hấp dẫn và quý báu
giúp các nhà nghiên cứu khoa học trên nhiều lĩnh vực lý giải và nhận diện giá
trị to lớn của di tích này đối với hệ thống di sản văn hoá của dân tộc qua các
thời đại.
Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Keo
Hành Thiện, gồm Chùa Keo trong và Chùa Keo ngoài (huyện Xuân Trường,
tỉnh Nam Định) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích quốc gia đặc
biệt (tại Quyết định số 2499/QĐ-TTg ngày 22/12/2016.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Khắc Đoài (Theo Hồ sơ tư liệu, Cục Di sản văn hóa)
Nguồn: Cục di sản văn hóa