Lễ hội Bình Đà là lễ hội truyền thống cổ xưa của Việt Nam được tổ chức tại làng Bình Đà, lễ hội cũng là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia đầu tiên của thành phố Hà Nội. Lễ hội diễn ra từ 25 tháng 2 đến 6 tháng 3 âm lịch, chính hội từ mồng 1 đến mồng 6 tháng 3 âm lịch.
Làng Bình Đà (xã Bình Minh, huyện Thanh Oai, Hà Nội) là một
trong những địa danh nổi tiếng trên đất nước Việt Nam, ở đó có khu di tích lịch
sử quốc gia Đền Nội Bình Đà thờ Đức Quốc tổ Lạc Long Quân và Đình Ngoại thờ Thượng
Đẳng thần Linh Lang Đại Vương.
Lễ hội Bình Đà (Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia) được tổ
chức hàng năm, là lễ hội cổ truyền từ xa xưa, một trong những lễ hội lớn nhất
trong vùng và cả nước. Lễ hội kéo dài trong nhiều ngày nhằm kết hợp lễ tưởng nhớ
Quốc tổ Lạc Long Quân, và Thành Hoàng Làng Linh Lang Đại Vương đã có nhiều công
đức trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Từ hàng nghìn năm nay, người dân Bình Đà với lòng thành kính
cao đã duy trì lễ hội truyền thống với các hình thức tế lễ tâm linh độc đáo.
Nghi thức thả bánh thánh đặc biệt và thần bí, mang đậm giá trị lịch sử – văn
hóa của tín ngưỡng Hùng Vương. Lễ hội mang đậm bản sắc nền văn hóa lúa nước của
Việt Nam, ghi lại những truyền thống thiêng liêng của thời kỳ đầu dựng nước.
Hàng năm, lễ hội Bình Đà được tổ chức ở khu di ti tích quốc
gia Đền Nội Bình Đà và Đình Ngoại thờ Linh Lang Đại vương (xã Bình Minh,, huyện
Thanh Oai, Hà Nội); nhằm tưởng nhớ công lao của tiền nhân và giáo dục truyền thống
lịch sử, "uống nước nhớ nguồn" cho cộng đồng.
Hoạt động trong những ngày lễ hội
Ngày 24 tháng Hai
Lễ Quán Sái, nghi thức xin phép lau chùi, quét dọn Đền Nội.
Đình Ngoại. Các tế chủ và quan viên hành lễ ở Đền, Đình.
Ngày 25 tháng Hai
Tổ chức tế cáo Tiền Nhật, lễ trình bò sống. Nghi lễ tế bò nhằm
tưởng nhớ ngày Đức Thánh Linh Lang tế bò khao quân trước khi ra trận đánh giặc
Chăm.
Trước kia, chỉ sau Hội một tháng, các giáp đã phải họp để chọn
gia đình nuôi bò, chuẩn bị cho lễ tế bò năm tới. Các giáp chọn những gia đình
song toàn, không vướng tang cớ, con cháu đề huề để nuôi bò cúng tế. Bò được chọn
mua về nuôi phải là bò đực, khỏe mạnh, đẹp theo những tiêu chuẩn nhất định như:
đường sống lưng bằng phẳng, ngực sâu và rộng, mông to, các chân cân đối, lông
trơn và không giòn. Gia đình được chọn phải làm chuồng bò mới ở nơi cao ráo sạch
sẽ để nuôi riêng, không được nuôi chung với các con bò khác. Cỏ cho bò ăn cũng
phải tự trồng riêng, sạch sẽ. Trước Hội một tháng, làng sẽ chọn một con bò béo
đẹp nhất làm lễ dâng Thánh. Giáp nào được chọn bò làm lễ dâng Thánh được coi là
may mắn vì năm đó sẽ được Thánh phù hộ.
Nghi thức nuôi và tế bò đã bị gián đoạn trong một thời gian
dài do chiến tranh và điều kiện khó khăn về kinh tế. Đến năm 2014, nghi lễ mới
được khôi phục lại. Hiện nay, không còn các giáp và cũng không có gia đình nào
có đủ điều kiện để chăn nuôi bò trong một năm do Bình Đà đã đô thị hoá. Vì vậy,
trước Hội một tháng, Ban Quản lý Di tích sẽ phân công một thôn (thường là theo
thứ tự luân phiên) đi mua bò tế. Bò mua về phải lựa chọn theo những quy định tổ
tiên truyền lại và giao cho một gia đình song toàn, không tang cớ, tự nguyện
nuôi trong vòng một tháng.
Trước ngày làm lễ, gia đình sở tại phải chăm cho bò loại cỏ
tươi thơm, hàng ngày đun nước cây thơm (hương nhu, xả) tắm cho bò. Ngày hội, bò
được tắm rửa bằng nước giếng của đình, nhịn ăn từ hôm trước (ngày 24 tháng Hai
Âm lịch). Ngày 25, bò được cho mặc áo và rước từ gia đình nuôi bò đến đình Ngoại
làm lễ tế bò sống.
Ngày 26 tháng Hai
Được truyền là ngày hóa của Đức Thánh Linh Lang, cũng là
ngày Đệ niên kỉ niệm Đương Cảnh Thành Hoàng. Sáng sớm, người dân mổ bò lấy
lông, gan, khâu bụng lại đem thui. Một hương án lớn được đặt ở sân đình. Bò được
thui chín cả con đặt lên trước hương án đầu quay vào trong đình, cùng với toàn
bộ tiết và nội tạng.
Dân chúng 7 thôn trong làng phải cùng nhau rước lễ thôn mình
ra Đền Nội, mỗi thôn biện 2 lễ, trong đó có một lễ chay dâng tiến lên Đức Quốc
tổ Lạc Long Quân. Tế xong, cả bảy thôn mới rước lễ mặn (trư nhục - thịt lợn) ra
dâng đình Ngoại. Ban tế đình Ngoại làm nghi thức tế lễ dâng Thánh. Tế xong, bò
được mang về chia cho các gia đình trong thôn để lấy lộc. Hội nghỉ ba ngày.
Ngày 30 tháng Hai
Ngày lau chùi và lắp kiệu. Ba kiệu đình Ngoại được chuyển
vào Đền Nội.Trong Đền hương nến thắp suốt ngày, tế chủ phải vào ở trong đền,
đình đến hết hội. Buổi chiều, các giáp, dòng họ hoặc gia đình đăng kí cung tiến
mã, cây vàng, cây bạc rước ra nhà văn chỉ để chiều hôm sau làm lễ đón Mã.
Ngày Mồng Một Tháng Ba
Ngày hội cầu phúc. Sáng sớm, đội bông nghệ thuật các thôn phải
trồng cây bông của thôn mình vào những vị trí đã quy định từ trước. Giờ Mùi,
nhân dân Thôn Dộc dâng lễ vào Đền Nội sau đó cử hành lễ long trọng đón Mã.
Sáu kiệu cùng các kiệu lễ được rước từ Đền ra nhà Văn chỉ nhận
Mã rồi chia làm hai, một về Đền Nội, một về Đình Ngoại. Đám rước có cờ, quạt,
trống, chiêng, thanh la và những nhạc cụ dân tộc khác. Ba cỗ kiệu gồm kiệu Long
Đình, Bát Cống, Giá cỗ (để bộ Mã) đều có tàn, lọng che. Đoàn rước cũng bao gồm các
đồ lỗ bộ, bát bửu sơn son thiếp vàng uy nghi lộng lẫy.
Phường bát âm đi đầu hòa tấu suốt dọc đường. Sau đó là đoàn
các bô lão, chức dịch. Cuối đám rước là đội múa rồng, lân rộn ràng uốn lượn
theo nhịp trống cùng tiếng hò reo của người dân. Khi đám rước về đến Đền Nội,
Đình Ngoại, chủ tế ban hành lễ cử hành tế lễ.
Ngày Mồng Hai Tháng Ba
Làm lễ Nhật luân nhập tịch kì phước. Từ sáng sớm, nhân dân
Thôn Đìa tổ chức rước lễ vào Đền Nội, ban hành lễ cử hành tế lễ rồi rước lễ ra
Đình Ngoại. Buổi chiều, các dòng họ, quan khách, các nhóm và cá nhân dâng lễ,
dâng hương, cấu phúc, cầu an. Trên sân đình và các khu vực công công, địa
phương tổ chức các trò chơi dân gian như cờ người, đập niêu, bắt vịt, đấu vật
và các giải đá bóng, bóng chuyền, trình diễn văn nghệ.
Ngày Mồng Ba Tháng Ba
Tiếp tục làm lễ Nhật luân nhập tịch kì phước. Từ sáng sớm,
nhân dân Thôn Quyếch, tăng ni phật tử Chùa Gã, Chùa Âm, Miếu Ông cử hành rước lễ
dâng lên Đền Nội, ban hành lễ cử hành tế lễ rồi rước lễ ra Đình Ngoại.
Ngày Mồng Bốn Tháng Ba
Tiếp tục làm lễ Nhật luân nhập tịch kì phước. Từ sáng sớm,
nhân dân Thôn Chua tổ chức rước lễ dâng lên Đền Nội, ban hành lễ cử hành tế lễ
rồi rước lễ ra Đình Ngoại. Buổi chiều đón dân chúng và cán bộ chính quyền, đoàn
thể các làng quanh vùng đến dâng lễ và dự hội cổ truyền làng Bình Đà.
Ngày Mùng Năm Tháng Ba
Từ sáng sớm, nhân dân Thôn Chằm tổ chức rước lễ dâng lên Đền
Nội, sau đó ban hành lễ cử hành lễ tế và lễ Mã hoàn ký (hóa Mã của năm trước).
Sang giờ mùi (13 giờ - 15 giờ) trống chiêng lại nổi lên vang
vọng. Người dân bắt đầu rước kiệu "giao hoàn". Đoàn lễ rước sắc từ Đền
Nội ra Đình Ngoại rồi trở về. Sắc của Quốc tổ Lạc Long Quân gửi con đi đánh giặc
giữ nước. Hoàng tử Linh Lang đại vương là biểu tượng của thế hệ tiếp nối sự
nghiệp của Quốc tổ.
Đám rước có đội múa rồng, múa lân đi cùng đội trống, kèn. Hoàng
hôn, kiệu được rước từ Đình Ngoại quay về Đền Nội. Đây là đám rước lớn nhất với
sự tham gia của phường bát âm, đội múa rồng. Đội cờ nhiều màu rực rỡ như cờ ngũ
hành, cờ tứ linh, cờ hàng giáp. Đội văn nghệ địa phương sênh tiền với tiếng trống
cơm hòa nhịp. Đi cùng đoàn rước là đội rước bộ bát bửu, đèn lồng. Giờ Tuất
(19-21 giờ), đám rước lớn tới cổng Đền Nội. Đám rước lớn tạm dừng, chào đón đám
rước của các chùa vừa tới.
Đám rước của các chùa không ồn ào, tôn nghiêm với những lá
phướn dài, cờ nhà Phật cùng đoàn tăng ni, phật tử trầm lặng, khiêm nhường, vừa
đi vừa niệm kinh. Vật phẩm nhà chùa là cỗ chay xếp ngăn nắp trên những mâm đồng
do sãi đội: 100 phẩm oản, 100 quả chuối, 100 miếng cau đậu, 100 ghế chéo 1 để
dâng cho 100 con trai của Quốc tổ Lạc Long Quân và Quốc Mẫu Âu Cơ.
Năm gian Đền Nội đèn nến sáng trưng, khói hương nghi ngút,
ngan ngát toả thơm. Vật phẩm dâng trình vừa xong thì mâm bánh trôi thờ gọi là
bánh vía, bánh thủy cũng vừa rước tới. Chủ tế nhận đưa ngay vào hậu cung dành
cho nghi lễ đặc biệt ngày mai, mồng 6, chính hội.
Cửa Đền lần lượt đóng lại, cử hành nghi lễ "mật
cúng" thiêng liêng. Chỉ còn hai chủ tế, bốn trùm, bốn giải quán tiến hành
lễ thỉnh bách thần về phù hộ cho dân làng, làm ăn phấn chấn, mùa màng thịnh vượng.
Ngoài sân đền diễn ra các trò chơi dân gian, văn nghệ địa phương.
Ngày Mồng Sáu Tháng Ba
Ban hành lễ tế Hội đồng. Từ sáng sớm, chủ tế, trùm cai bày
các mâm lễ thờ như ngọc phả quy định. Cửa đền đóng chặt, chủ tế cử hành Lễ mật
cúng diễn ra như đêm hôm trước.
Sau lễ Mật cúng, cửa đình mở rộng, chiêng trống, đàn nhị nổi
lên hòa tấu, báo hiệu nghi lễ mới: lễ múa cờ, múa bông (đón mời và cầu nguyện
quốc tổ). Cuộc tế lễ của cộng đồng dân làng diễn ra ngay sau hai lễ múa trên.
Tế trong Đền Nội đồng thời cầu ở Thiên Quan, ở đài tế trời,
đất trước đình, phía bên trái. Các giáp mang lễ lợn (lợn cả con, sạch lông, sạch
lòng) bày quanh đài. Mỗi giáp một chủ tế đảm nhiệm. Chủ tế tới đàn trời đất đọc
văn tế nhằm thông cáo với trời đất: "Thiết nghĩ âm dương đều cảm, giời đất
lưu thông u hiển tuy khác, thành tâm như một. Ngày này, giờ này, nước Đại Việt,
phủ Ứng Thiên, huyện Thanh Oai, xã Bảo Đà, quan viên, chức sắc kỳ mục, lý dịch
cùng trên dưới, già trẻ mười sáu giáp, hàng năm mở tiệc cầu phước vào ngày mùng
6/3, kính cáo". Sau đó người dân các giáp, các làng cử hành lễ rước và thả
bánh Thánh tại giếng Ngọc.
Buổi chiều là lễ rước Thánh hoàn Cung, sáu kiệu từ Đền Nội
và Đình Ngoại lần lượt từ Đền trở về Đình. Sau khi đi được nửa đường thì ba kiệu
Đền Nội quay lại Đền Nội còn ba kiệu Đình Ngoại hoàn cung Đình Ngoại. Ban hành
lễ làm lễ yên vị thánh và cất kiệu đến hội năm sau.
Ngày Mồng 7 Tháng Ba
Từ sáng sớm, nhân dân Thôn Chợ tổ chức rước lễ dâng lên Đền
Nội, cử hành lễ tạ rồi rước lễ ra Đình Ngoại làm lễ tạ, kết thúc hội.
Đền Nội Bình Đà
Nguồn gốc của Lễ hội Bình Đà , được khắc trên bia đá của Đền Nội
Đền Nội Bình Đà trong ngày khai hội
Các đoàn của các thôn dâng lễ Đền Nội
Đình Ngoại Bình Đà
Đình Ngoại Bình Đà ngày Khai hội
Tục làm bánh Thánh, rước và thả bánh
Từ xa xưa công việc làm bánh Thánh phục vụ lễ hội chỉ được
giao cho dòng họ Nguyễn Văn. Việc làm bánh thánh rất khắt khe và nghiêm ngặt,
chỉ được giao duy nhất cho một người con trưởng trong gia đình dòng họ và đặc
biệt không truyền cho người ngoài.
Công việc chuẩn bị làm bánh thánh phải đích thân do người
con trưởng chuẩn bị trước ngày lễ hội một tuần, trong đó tất cả những dụng cụ
làm bánh thánh, điều đặc biệt là phải mua mới toàn bộ, không sử dụng đồ cũ.
Dụng cụ làm bánh bao gồm chày cối, xoong, nồi, kiềng bếp,
bát đĩa, rổ giá. Nguyên liệu quan trọng làm bánh là gạo nếp, nhân bánh. Người
chịu trách nhiệm làm bánh thánh trước ngày lễ hội người làm bánh phải trai giới,
ăn chay và cách ly nhằm giữ cho thân thể và tâm hồn được trong sạch và thanh tịnh,
phục vụ cho việc làm bánh thánh trong Đền.
Vật liệu dùng để đun bánh phải là cây tre chết dóc, tức tre
già chết khô trong bụi. Đây là một công việc hết sức khó khăn vì những cây tre
già thường nằm giữa những bụi tre to. Người được giao nhiệm vụ làm bánh thánh phải
tìm cách lấy bằng được cây tre khô để làm củi đun trong quá trình luộc bánh.
Nghệ nhân làm bánh sẽ lên hàng thuốc bắc, phố Lãn Ông chọn một
số vị thuốc đặc biệt bí truyền để làm nhân bánh, những vị thuốc này được dùng để
khi thả xuống Giếng Ngọc, bánh sẽ chìm xuống và là biểu trưng cho Thiên, Địa,
Nhân, tương ứng với 100 người con của Quốc tổ Lạc Long Quân và Quốc mẫu Âu Cơ.
Nguyên liệu chính để làm bánh không thể thiếu được là gạo,
gia đình được làng cấp cho ruộng để cấy loại lúa đặc biệt làm bột bánh thánh, gạo
được gia đình lưu giữ cẩn thận. Gạo trước khi mang ra ngoài Đền phải đãi thật sạch,
trải đều trên một chiếc mâm phơi ngoài nắng cho ráo nước, sau đó giã bột làm
bánh ở ngoài đền, bột bánh không bị bết và vón cục.
Vào ngày Lễ hội, đến giờ hoàng đạo, chủ sự thắp hương kính
cáo tổ tiên dòng họ, gia đình cùng nhau hỗ trợ nghệ nhân nguyên vật liệu từ nhà
ra ngoài Đền Nội để làm bánh Thánh tại đó. Ngoài Đền Nội có một gian riêng để nghệ
nhân và người con trai trưởng làm bánh thánh. Khi các nguyên liệu làm bánh được
đưa vào căn phòng đặc biệt này, người làm bánh cử lễ cẩn cáo quốc tổ Lạc Long
Quân và bắt đầu làm bánh trong phòng kín, không ai được phép tới gần khu vực
làm bánh thánh.
Bánh dâng Quốc tổ tương ứng với điềm báo của làng trong năm
tới, chia bánh vào khay sao cho vừa và có con số đẹp nhất. số lượng bánh thay đổi
theo từng năm, chỉ có người làm bánh biết số lượng bánh. Khi bánh được làm và
bày xong, hai ông chủ tế cùng những người trong lễ tế mang cầm cờ, cầm đồ tế lễ
lấy vải đỏ phủ kín đài bánh và đưa vào trong hậu cung. Bánh thánh được lưu giữ
đến ngày hôm sau làm lễ rước và thả ngoài giếng Ngọc.
Ngày mùng 6 tháng 3 âm lịch là ngày chính hội, giờ khắc đã
điểm, trong tiếng nhạc của phường bát âm, bánh thánh trong đài đậy kín và vải đỏ
phủ kín được đặt lên kiệu rước có lọng, tàn, quạt hầu hai bên được rước đi ra
giếng Ngọc. Trong lòng giếng Ngọc quây sẵn một khung thả bánh thánh trong đó. Hai
vị chủ tế đọc chú và thả bánh thánh xuống, để bánh dâng chìm xuống giếng Ngọc
ra tới thủy cung.
Lễ hội cổ truyền Bình Đà được tổ chức hàng năm với niềm tin
tưởng sâu sắc, Quốc tổ Lạc Long Quân và Thành hoàng Linh Lang Đại Vương sẽ phù
hộ cho đất nước và nhân dân Bình Đà mưa thuận gió hòa, bình yên và may mắn.
TS Lê Thị Minh Lý
Tư liệu ảnh: Nguyễn Huân/Đền Miếu Việt
Nguồn: Thế giới Di sản