• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
Văn hóaTín ngưỡng - Tâm linh
  • UKEnglish

Tín ngưỡng - Tâm linh

Đình Phú Dư, Quỳnh Phú thờ phụng thần Lã Nam Để Đế vương

Đình Phú Dư hiện không còn giữ được bản thần tích, thần sắc gốc ghi chép về lại lịch công trạng của Thành Hoàng làng. Căn cứ vào bàn thần tích, thần sắc của làng Phú Dư kê khai năm 1938 và truyền kể của nhân dân địa phương, đình Phú Dư thờ “Lã Nam Để Đế vương” cùng với một số làng lân cận.

Đình Phú Dư xưa thuộc tổng Quỳnh Bội huyện Gia Định, nay thuộc thôn Phú Dư xã Quỳnh Phú, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Phú Dư- Quỳnh Phú là vùng đất cổ có lịch sử hình thành và phát triển từ lâu đời. Trải ngàn năm lịch sử, những dấu tích về vùng đất cổ kính vẫn còn đậm đặc ở vùng đất này, đó là những truyền thuyết, địa danh, phong tục tập quán, đặc biệt là tín ngưỡng thờ những vị thần từ thuở dựng làng lập nước của dân tộc Việt Nam.

Căn cứ vào văn bia “Tu hậu Thần hậu Phật bi ký” dựng năm Chính Hoà thứ 7 (1686), do Thám hoa Nguyễn Văn Thực soạn văn (ông người làng Đại Bái, cùng huyện, làm quan đến chức Thượng thư bộ Binh) thì vào thế kỷ 17 Phú Dư là một xã thuộc tổng Quỳnh Bội, lúc này làng đã có đình, chùa.

Tài liệu văn bia cũng trùng hợp với truyền kể của nhân dân địa phương, các cụ cao niên trong làng đều cho hay, đình Phú Dư được xây dựng vào khoảng thời Lê Trung Hưng (TK 17), đến thời Nguyễn (năm Tân Dậu- 1921) được tu bổ tôn tạo lớn, gồm đại đình hình chữ đinh 7 gian 2 chái, mái ngói đao cong, bộ khung gỗ lim to lớn, trang trí chạm khắc tinh xảo nghệ thuật. Trước đại đình hai bên là toà dải vũ, mỗi toà 7 gian, cổng nghi môn 3 vòm với hai tầng mái chồng diêm, đắp vẽ tinh xảo nghệ thuật, là một trong những ngôi đình đẹp nổi tiếng trong vùng. Tiếc rằng trong kháng chiến chống Pháp, thực hiện việc tiêu thổ, ngày 12 tháng 12 năm 1949 đình Phú Dư được hạ giải nhằm không cho địch có chỗ lập đồn, bốt.

Hoà bình lập lại khu đất đình, chùa được dùng để xây dựng hội trường hợp tác xã. Năm 2002 đình Phú Dư được chính quyền và nhân dân phục dựng trên nền xưa đất cũ theo dáng vẻ truyền thống.

Đình Phú Dư có kết cấu kiểu chuôi vồ. Tiền đình 5 gian 2 chái, 4 mái đao cong, bộ khung làm bằng chất liệu bê tông, cốt thép. Hậu cung nối với gian giữa tiền đình, gồm 1 gian, 1 dĩ, bộ khung gỗ lim bào trơn đóng bén.

Trong hậu cung, tượng Thành Hoàng làng được đặt trang trọng nơi cao nhất. Tượng được tạc trong tư thế ngồi trong ngai với khuôn mặt vuông vức, phúc hậu, mắt sáng, râu dài, tai chảy, đầu đội mũ cánh chuồn, mình mặc áo gấm, chân đi hia; hai tay để trên đầu gối, tay phải cầm biển gỗ, tay trái úp xuống đầu gối.

Cả ngai và tượng là một khối gỗ liền nhau (pho tượng cổ có niên đại thời Nguyễn, tuy nhiên tháng 5 năm 2011 đã bị kẻ gian lấy trộm, tượng hiện nay mới được dân làng phục chế theo mẫu của pho tượng cổ).

Hiện đình Phú Dư còn bảo lưu được một số tài liệu cổ vật như sau: bia đá tứ diện “Thần Phật chi bi” dựng vào năm Chính Hoà thứ 7 (1686), nội dung ghi khắc về việc lập hậu đình, hậu chùa, bia “Hưng Công bi ký” (chữ đã bị mờ), bia “Thạch kiều bi ký” (chữ đã mờ), cây hương đá thời Lê, 2 con sấu đá thời Lê, 1 con chó đá thời Nguyễn và một số đồ thờ tự mới bổ sung làm cho ngôi đình thêm khang trang tố hảo.

Đình Phú Dư hiện không còn giữ được bản thần tích, thần sắc gốc ghi chép về lại lịch công trạng của Thành Hoàng làng. Căn cứ vào bàn thần tích, thần sắc của làng Phú Dư kê khai năm 1938 và truyền kể của nhân dân địa phương, đình Phú Dư thờ “Lã Nam Để Đế vương” cùng với một số làng lân cận.

Để tìm hiểu rõ hơn về vị thần được thờ ở đình Phú Dư, các nhà nghiên cứu đã mở rộng địa bàn nghiên cứu sang một số làng khác trong vùng. Qua tìm hiểu nghiên cứu các tài liệu ở các địa phương này thì thấy rằng Phú Dư là một trong rất nhiều làng (xã) trong vùng cùng có tín ngưỡng thờ thần Lã Nam như: Quảng Bố (làng Vó), Quảng Nạp (Nắp Ngòi), Hiệu Bố (Nắp Chanh), Thanh Gia (Nắp Dừa), Lĩnh Mai (Nắp Chợ), Phú Thọ (Làng Cao), Đỗ Xá (Đọ Bắc.

Đặc biệt tại làng Phú Thọ (nằm cạnh làng Phú Dư, nay thuộc xã Quảng Phú, huyện Lương Tài) còn lưu giữ được tấm bia đá (theo các nhà nghiên cứu thì được dựng vào khoảng thời Lê) ở đền Tân Trăn cho biết rõ về sự tích của thần Lã Nam như sau:

Tại xã Phúc Thọ, huyện Thiện Tài. phủ thuận An, có một khu đất, là xứ Giang biên (bến sông), bốn bề cỏ cây tươi tốt. Trong xứ đó, có một cái gò trong xoe, gọi tên là Ngọc Hoàn (hòn ngọc).

Về thời Hùng Vương thứ chín, tháng hai năm Bính Thìn (20.1.305 TCN) ở xứ Ngọc Hoàn, đêm đến thường thấy sáng đỏ chói lọi, ban ngày thường thấy giống thuồng luồng ba ba xuất hiện từng đàn. Thấy thế, người trong làng sợ hãi, xem bói, người ta đoán rằng: “Nơi này tất có Thuỷ thần hiển ứng”.

Vào khoảng giờ thìn, ngày thìn tháng ấy (29.1.365 TCN) có một cụ trong làng, tuổi ngoài 80, nằm ngủ say, chợt thấy Thần hiện ra người bảo rằng: “Ngày mồng 8 tháng 4 năm nay Ngọc Hoàng hạ sắc cho Thủy quốc linh thần (thần dưới miền nước) quyền giữ phương này trông coi nhân dân. Miếu Thần ở xứ Ngọc Hoàn Trăn Tân (bến Trăn, cho nên gọi là đền Trăn Tân), dân thôn này cứ chỗ đá nồi lên, gấp kín dựng miếu mà thờ”. Cụ già sợ hãi hỏi rằng: “Thật như lời ông, dám xin ông cho biết tên hèm”. Thần trả lời: “Quốc ngọc thiên tử Lã Nam Để Đế Vương vằng vẫy tràng đại vương”.

Cụ già tỉnh dậy, bèn đem chuyện trong mộng bảo người làng viết duệ hiệu thần, lập miếu thờ. Miếu ấy càng ngày càng linh ứng, cả vùng sợ hãi. Các làng lân cận, người và súc vật không được yên ổn, đều đến miếu ấy cầu cúng, hễ cầu là thấy ứng nghiệm. Làng nào cũng có lời với làng xin hiệu duệ về thờ vọng.

Đến đời Sĩ Vương (187-226 SCN) cai trị, đền này càng thấy linh ứng. (Sỹ Vương) gọi (người dân) hỏi sự tích (thần) phong cho làm trung đẳng linh thần. Rồi đến triều Lý Anh Tông nối ngôi, ngọn cờ thần lại trở lại thuận theo (triều đình), giúp việc bình thổ phỉ có công, lại được gia phong tên hèm (thưởng phong cho làm Lã Nam để đế vị (vẫy) lang quân đại vương), thưởng phong là thượng đẳng linh thần và gia ban lễ tiết xuân để tế thần.

Nay vì bia cổ, trải nhiều đời, nét chữ mòn mất. Nhưng xin sao rõ bia cổ, cùng với việc gia phong, gia ban cùng khắc lại nên hòn đá cũ để người sau xem mãi.

Theo truyền thống, hội đình Phú Dư được tổ chức vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch hàng năm nhằm tưởng nhớ, tỏ lòng tri ân công đức của Thần đối với dân làng. Xưa hội được tổ chức rất lớn trong 3 ngày, từ ngày mồng 7 đền ngày mồng 9 tháng 4 âm lịch.

Trong những ngày diễn ra lễ hội, những nghi thức tế rước được tổ chức rất trang nghiêm, trong đó bao giờ cũng có tục rước kiệu sang đền Tân Trăn để tế lễ trước khi mở hội tại đình. Song song với các nghi lễ tế Thánh còn là phần hội với nhiều trò chơi dân gian như: hát tuồng, chèo, ả đào, cờ người, đu cây, đập niêu…thu hút đông đảo nhân dân tham dự.

Toàn bộ tòa Đại Đình.

Cổng chính được xây mới trên nền đất xưa.

Nằm ở vị trí đầu làng, giáp trục đường Tỉnh lộ 284, đình nằm trên diện tích đất hơn 1000 m2 gồm các công trình: Đại đình và Hậu cung.

Mái đình lợp ngói mũi hài, bờ nóc đắp nổi hình “lưỡng long chầu nhật”.

 

Hai đầu nóc đắp đôi kìm mái mặt rồng.

Tòa Đại đình có kiến trúc kiểu 4 mái đao cong. Hệ khung chịu lực bằng gỗ, gồm 4 bộ vì tạo thành 3 gian 2 chái 2 dĩ. Mỗi bộ vì có 6 hàng chân cột, kết cấu kiểu “thượng chồng rường, hạ chồng rường, kẻ hiên”. Mái đình lợp ngói mũi hài, trên bờ nóc đắp nổi hình “lưỡng long chầu nhật”, hai đầu nóc đắp đôi kìm mái mặt rồng. Toàn bộ 4 bờ dải và bờ chảy chạy từ trên xuống đều gắn hoa chanh, phía dưới góc đao được cuốn lại bởi những chi tiết đắp nổi lá lật tách thành 2 mũi hình lưỡi đao thanh thoát, nhẹ nhàng.

Bên trong Đại đình và Hậu cung.

Hậu cung có kiến trúc nối liền và vuông góc với Đại đình. Hậu cung gồm 3 bộ vì tạo thành 2 gian. Mỗi bộ vì có 4 hàng chân cột, kết cấu kiểu “thượng chồng rường, hạ chồng rường bảy hiên”.

Tượng đức thánh, hương án, khám thờ, bộ bát biểu cổ được đặt trong Hậu cung.

Đôi Sấu đá được đặt trong khuôn viên đình.

4 bia đá cổ: "Thần phật chi bi", "Hương công bi ký", "Thạch kiều bi ký", "Phụng thạch bi sự tích".

Theo truyền thống, hội đình Phú Dư được tổ chức vào ngày mồng 8 tháng 4 hàng năm. Những nghi lễ thờ cúng đức Thánh được duy trì trang nghiêm, với nhiều trò chơi dân gian như: hát tuồng, chèo, ả đào, cờ người, đu cây, đập niêu. Bên cạnh đó, còn có các hình thức văn hoá như: câu lạc bộ thơ, thể dục dưỡng sinh, hát quan họ…  thu hút đông đảo nhân dân tham dự. Đình làng Phú Dư đã thực sự trở thành trung tâm văn hoá, nơi gắn kết cộng đồng làng xã, nơi bảo tồn các truyền thống tốt đẹp của quê hương.

Đình Phú Dư được UBND tỉnh Bắc Ninh cộng nhận xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá năm 2004, quyết định số 2173/QĐ-CT, ngày 20 tháng 12 năm 2004.

Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh

Trở về đầu trang
   Đình Phú Dư thôn Phú Dư xã Quỳnh Phú huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh thờ phụng Lã Nam Để Đế vương
0   Tổng số:

Các tin khác

  • Giá trị tín ngưỡng thờ thần Tây Thiên
  • Di tích lịch sử - nghệ thuật Đình Lạc Trung
  • Xá lợi Đức Phật trở về Ấn Độ sau hành trình tôn trí tại Việt Nam
  • Quảng Ninh: Hạ Long quan tâm tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa
  • Xá lợi Đức Phật được tôn trí, an vị tại chùa Quán Thế Âm (Đà Nẵng)
  • Đền An Xá – Thụy Ứng quán thờ phụng Ngọc Hoàng thượng đế, Ngũ lão Tiên ông
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật
  • Ra mắt Tour đêm “Tiếng chuông Trấn Vũ” tại đền Quán Thánh
  • Lan tỏa giá trị toàn cầu của Khu di tích danh thắng quốc gia đặc biệt Yên Tử
  • Cung nghinh xá lợi Đức Phật an vị vào Cung Trúc Lâm Yên Tử (Quảng Ninh)
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Long An phát triển du lịch qua di tích lịch sử - văn hóa

    207
  • Hội Lim (Bắc Ninh) là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia

    138
  • Những điều thú vị của du lịch Đà Lạt (Lâm Đồng) trong tháng 6

    133
  • Rực rỡ mùa vàng vùng cao

    107
  • Đưa du lịch Ninh Thuận trở thành ngành kinh tế bền vững

    102

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2025 Trang thông tin du lịch