• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
Văn hóaTín ngưỡng - Tâm linh
  • UKEnglish

Tín ngưỡng - Tâm linh

Nghè Nguyệt Viên, thờ phụng nữ Thành hoàng Mai Hoa Công chúa và 18 vị tiến sĩ làng khoa bảng

Nghè Nguyệt Viên, làng cổ Nguyệt Viên, xã Hoằng Quang, thành phố Thanh Hóa, thờ phụng nữ Thành hoàng và các vị tiến sĩ của làng khoa bảng nổi tiếng xứ Thanh.

Nguyệt Viên xưa không chỉ nổi tiếng với truyền thống học hành khoa bảng, mà còn là nơi gặp gỡ của tuyến giao thương Bắc - Nam bằng đường thủy... Nhờ đó, làng cổ nằm cạnh sông Mã này mang  “phong vị” đặc trưng của làng xã người Việt: Thuần hậu, yên bình và đậm đà bản sắc văn hóa.

Về làng Nguyệt Viên, không thể qua thăm viếng nghè cổ Nguyệt Viên, nơi thờ vị nữ Thành hoàng có duệ hiệu “Chương Vĩ Dực Bảo Trung Hưng Thượng Đẳng Thần”.

Tọa lạc trên diện tích khá khiêm tốn, khoảng 0,25 ha, công trình kiến trúc được xây dựng cách đây hơn 4 thế kỷ vào năm Quang Hưng thứ 16, năm 1593 dương lịch triều Lê Thế Tông, khiến hậu thế phải kinh ngạc bởi vẻ đẹp của nó.

Có nhà nghiên cứu, khi qua đây đã miêu tả nghè Nguyệt Viên “tựa như một búp sen từ từ mở cánh tỏa sắc, khoe hương và soi bóng vào mặt gương trong của dòng sông Mã”.

Bên cạnh vẻ đẹp kiến trúc, điều hấp dẫn của nghè Nguyệt Viên còn nằm ở câu chuyện tình yêu đơn phương cảm động và đầy bi thương của nàng công chúa đẹp người, đẹp nết dành cho vị Phụ ký lang hầu Đô tổng thống Nguyễn Công Đàn, người có công lớn phò vua cứu nước.

Theo truyền thuyết dân gian địa phương, Thành hoàng làng Nguyệt Viên là công chúa Mai Hoa, công chúa của vị vua đương thời.

Vì cảm phục tài cao học rộng của ông Nghè Đờn, sinh quán xã Hoằng Thịnh, huyện Hoằng Hóa ngày nay nên khi ông từ quan về quê, bà đã bí mật tìm theo. Tuy nhiên, giữa đường bị lạc, không thể tìm thấy quê của ông Nghè Đờn.

Quá tuyệt vọng nên bà đã gieo mình xuống sông Mã tự vẫn, thi thể trôi về đến làng Nguyệt Viên và được ông tổ họ Nguyễn làng Nguyệt Viên chôn cất tại Cồn Trạch.

Sau đó, các vị chức sắc trong làng nằm mơ thấy một người con gái hiện ra nói sẽ báo đáp, phù hộ cho dân làng học hành tiến bộ, làm ăn phát đạt. Từ đó, nhân dân làng Nguyệt Viên lấy ngày mùng 10 tháng 2 âm lịch hàng năm - ngày chôn cất bà làm ngày giỗ và tôn bà làm Thành hoàng làng.

Nghè Nguyệt Viên ngoài thờ Thành hoàng làng là công chúa Mai Hoa còn thờ các vị đỗ tiến sĩ trong các triều đại khác nhau. Tổng cộng có 18 vị tiến sĩ được ghi danh và thờ phụng tại nghè.

Hiện bên trong di tích Nghè vẫn còn tấm bia ghi danh 11 vị tiến sĩ của làng Nguyệt Viên đỗ đạt thời Phong kiến. Mở đầu là tiến sĩ Nguyễn Trật (thời vua Lê Thần Tông) và người cuối cùng của làng, cũng là cuối cùng của cả nước thi đỗ tiến sĩ thời Phong kiến là cụ Phó bảng khoa thi Kỷ Mùi 1919 Lê Viết Tạo".

Như một niềm tự hào về truyền thống khoa bảng, đỗ đạt, ở Nguyệt Viên ngày nay vẫn lưu truyền câu ca: "Nguyệt Viên 18 ông Nghè/ Ông cưỡi ngựa tía, ông che tán vàng".

 Nghè Nguyệt Viên được khởi dựng cuối thế kỷ XVI, năm Quý Tỵ, thuộc niên hiệu Quang Hưng triều vua Lê Thế Tông năm 1593 DL, trùng tu năm Đinh Hợi niên hiệu Minh Mệnh, năm 1827 dương lịch, sửa chữa lớn năm Bính Thân niên hiệu Thành Thái, năm 1896 dương lịch. Năm 1996, Nghè Nguyệt Viên được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh.

Theo lời kể của người dân địa phương, trước đây Nghè nằm trong khuôn viên có quy mô lớn của làng, ngay phía bên có ngôi chùa và đình làng 9 gian, có giếng nước, chiếc cầu đá cùng nhiều cây cổ thụ quanh năm xanh tốt với cảnh quan rộng rãi, thoáng mát.

Qua nhiều thời gian, các công trình như chùa, đình làng, giếng cổ, cầu đá cổ, cây cổ thụ đều bị dỡ bỏ, chỉ còn lại duy nhất Nghè này. Đến nay, công trình này nằm trên một diện tích khá khiêm tốn, chỉ chừng 2.500 m2, quy mô kiến trúc cũng không lớn. Tuy nhiên, một công trình được xây dựng từ hơn 4 thế kỷ, lại có nhiều nét kiến trúc cổ kính độc đáo khiến không ít nhà nghiên cứu từng về đây phải kinh ngạc.

Tuy được khởi dựng từ khá sớm song dấu ấn kiến trúc cuối thế kỷ XVI ở nghè Nguyệt Viên không còn nhiều, ngoài hiện vật đôi “sấu đá” được đặt ở ngay trên bậc tam cấp bước vào nghè.

“Linh vật được chạm trong tư thế đang chồm tới, đầu hơi ngẩng, mắt lồi, mũi thon, miệng rộng, đang há miệng ngậm viên ngọc quý... Loại sấu đá này hiện còn khá nhiều ở các di tích thời Mạc ngoài Bắc. Nó có phần mất cân đối trong bố cục, nhưng vẫn tạo một thế đẹp”

 Nghè Nguyệt Viên - PGS Nguyễn Du Chi.

Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, di tích nghè Nguyệt Viên hiện nay là “sản phẩm” của lần đại trùng tu thứ nhất (năm 1827) với kiến trúc 1 gian 2 chái, bố cục gần giống hình vuông.

Trong đó, cấu trúc vì kèo khá đặc biệt, được ghi trong cuốn Địa chí Văn hóa Hoằng Hóa, Nxb Khoa học Xã hội, 2000: “Những người thợ xây dựng đã nâng cao và mở rộng giá chiêng ở trên câu đầu (dầm ngang chính đặt trên cùng) thành một tầng lầu thứ hai nhưng không có sàn, tạo cho không gian nội thất rộng rãi. Phía ngoài mái cũng tạo thành hai lớp, giữa hai lớp có thêm cổ diêm cao với nhiều cửa sổ con làm cho nội thất công trình sáng sủa, thoáng đãng. Loại kiến trúc hai lớp mái này được gọi là “trùng diêm”, xuất hiện cuối thế kỷ XVIII (chùa Tây Phương, Hà Tây là ví dụ), đến công trình này thì đã hoàn chỉnh hơn. Cấu trúc cao ráo, đơn giản và chắc chắn”.

Như nhiều di tích cùng thời, các mảng chạm khắc, trang trí ở nghè Nguyệt Viên cũng xoay quanh đề tài “tứ linh” quen thuộc. Trong đó, rồng (mắt lồi, mũi sư tử, mồm rộng) được chạm trên các đầu chếnh, một số rường, chạm thành từng đôi chầu mặt trời trang nghiêm, hoặc đăng đối; phượng (đầu to, mỏ quặp đang ngậm cuốn thư, đuôi seo sau gáy dài, thân nhiều lớp lông và mây xoắn, đuôi kéo dài cuồn cuộn như diềm lá đang cuốn trước gió) được thể hiện trong bố cục khỏe khoắn: toàn bộ thân uốn cong, đầu quay lại nhô cao ra ngoài. Hai con ở đầu góc đăng đối song bố cục, cách thể hiện lại không hoàn toàn giống nhau, tạo lên sự hấp dẫn cho du khách viếng thăm.

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 Nghè Nguyệt Viên là một công trình kiến trúc nghệ thuật mang đậm dấu ấn văn hóa triều Lê đời vua Lê Thế Tông (1593). Nghè đã qua nhiều lần trùng tu nhưng vẫn giữ nguyên được lối kiến trúc độc đáo xưa. Ảnh: ĐẶNG TRUNG

 

 Phía ngoài mái tạo thành hai lớp, giữa hai lớp có thêm cổ diêm cao với nhiều cửa sổ nhỏ tạo lên sự độc đáo khác biệt cho ngôi nghè. Ảnh: ĐẶNG TRUNG

 
 
 
 
 
 

 Tấm văn bia cổ được đặt trước Nghè Nguyệt Viên. Ảnh: ĐẶNG TRUNG

 Bức đại tự được treo chính giữa bên trong Nghè Nguyệt Viên. Ảnh: ĐẶNG TRUNG

 
 
 
 

 Kỹ thuật chạm khắc lồng với nhiều lớp hình thành chiều sâu văn hóa thu hút. Ảnh ĐẶNG TRUNG

 Nghệ nhân xưa khéo léo kết hợp những đường nét hình khối  tạo nên các chi tiết đơn giản tinh tế. Ảnh: ĐẶNG TRUNG

Hình rồng tạo thành chữ Phúc được người thợ chạm khắc từ hơn 400 năm trước vẫn nguyên vẹn. Ảnh: ĐẶNG TRUNG

Tham quan nghè Nguyệt Viên, người xem cũng nhận ra đề tài “lân” tại đây chiếm số lượng lớn, chạm trên “nghé bẩy, rường đấu, các cốn” với nhiều tư thế: con bơi trên mặt nước, lưng cõng một vòng có hình bát quái của “Hà đồ lạc thư”, con lại trong tư thế nằm ngửa... Kỹ thuật chạm khắc với nhiều lớp tạo nên chiều sâu thu hút. Bên cạnh đó, người nghệ nhân xưa cũng khéo léo kết hợp đường nét, hình khối để vừa đủ đầy chi tiết nhưng vẫn đơn giản tinh tế và sống động.

PGS Nguyễn Du Chi trong bài viết Nghè Nguyệt Viên nhận xét: “Chính những bức chạm đẹp ở nghè Nguyệt Viên bắt buộc chúng ta phải đánh giá lại về nghệ thuật kiến trúc và trang trí của đầu thế kỷ XIX... Về trang trí ở đây có những tác phẩm xứng đáng được lựa chọn đưa vào lịch sử nghệ thuật vì tiêu biểu cho nghệ thuật đầu thế kỷ XIX”.

Kiến trúc cầu kỳ đẹp mắt cùng với những đường nét chạm khắc nghệ thuật tinh xảo khiến Nghè Nguyệt Viên vừa linh thiêng, trang trọng vừa thực sự gần gũi, gắn bó với cuộc sống đời thường của người dân trong làng. Kỹ thuật chạm khắc linh vật ở Nghè Nguyệt Viên nhiều lớp gây ấn tượng về chiều sâu cảm nhận của bức chạm.

Hội làng hay lễ hội nghè Nguyệt Viên được tổ chức vào mùng 10 tháng hai âm lịch. Cùng với phần nghi lễ trang nghiêm, thành kính; phần hội đặc biệt thu hút người dân trong vùng bởi các hoạt động mang tính cộng đồng cao, như đua thuyền trên sông Mã, kéo hẹ, tú huần, hát đối... Theo lý giải của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, sức hấp dẫn của lễ hội nghè Nguyệt Viên một phần nằm ở lễ nghi và các trò diễn tưng bừng, náo nhiệt; song, sâu xa hơn, sức sống của lễ hội lại nằm ở nhân vật được thờ phụng.

Vượt xa ý niệm ban đầu là cảm thương cho tình yêu và cái chết của nàng công chúa, nhân vật được thờ phụng tại nghè Nguyệt Viên đã hóa thân thành Thành hoàng làng hay nữ thần sông, che chở cuộc sống và mang lại mưa thuận gió hòa, ấm no hạnh phúc, thành đạt cho mọi người dân nơi đây.

Trải qua thời gian nhiều thế kỷ, đến nay nghè Nguyệt Viên vẫn được địa phương chăm sóc, giữ gìn, như báu vật quê hương, “điểm tựa” tâm linh cho không chỉ người dân mà du khách xa, gần khi về với làng cổ Nguyệt Viên bên bờ sông Mã.

Từ xa xưa, cứ vào sáng mùng 1 tết, những người đỗ đạt trong làng, người theo con đường học hành, khoa cử lại ra nghè dâng hương, đàm đạo. Noi theo truyền thống đó, các cháu học sinh sau này, đứng trước mỗi kỳ thi lớn, bên cạnh sự nỗ lực cũng được bố mẹ dẫn ra nghè dâng lễ, cầu xin sự phù trợ hanh thông, may mắn... Lễ hội truyền thống nghè Nguyệt Viên diễn ra vào ngày mùng 10 tháng 2 âm lịch với nhiều hoạt động, là dấu ấn thời gian để người dân nhớ về nguồn cội, tri ân công đức tiền nhân."

Ảnh tư liệu: Vietnam Landmarks

 Nguồn: Báo Pháp Luật Tp Hồ Chí Minh

Trở về đầu trang
   Nghè Nguyệt Viên làng cổ Nguyệt Viên xã Hoằng Quang thành phố Thanh Hóa thờ phụng nữ Thành hoàng Mai Hoa Công chúa 18 vị tiến sĩ
0   Tổng số:

Các tin khác

  • Xá lợi Đức Phật trở về Ấn Độ sau hành trình tôn trí tại Việt Nam
  • Quảng Ninh: Hạ Long quan tâm tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa
  • Xá lợi Đức Phật được tôn trí, an vị tại chùa Quán Thế Âm (Đà Nẵng)
  • Đền An Xá – Thụy Ứng quán thờ phụng Ngọc Hoàng thượng đế, Ngũ lão Tiên ông
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật
  • Ra mắt Tour đêm “Tiếng chuông Trấn Vũ” tại đền Quán Thánh
  • Lan tỏa giá trị toàn cầu của Khu di tích danh thắng quốc gia đặc biệt Yên Tử
  • Cung nghinh xá lợi Đức Phật an vị vào Cung Trúc Lâm Yên Tử (Quảng Ninh)
  • Cụm di tích đình Hội, chùa Thanh Linh xã Tuy Lộc- di tích lịch sử văn hóa tỉnh Phú Thọ
  • Hàng nghìn người dân tới chiêm bái xá lợi Đức Phật tại chùa Bái Đính
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Long An phát triển du lịch qua di tích lịch sử - văn hóa

    166
  • Quảng Nam: Tây Giang hướng đến phát triển du lịch xanh

    121
  • Hải Dương: Phường rối nước Thanh Hải được công nhận là điểm du lịch

    119
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật

    113
  • Cung đường mới - động lực lớn cho phát triển du lịch hồ Ba Bể (Bắc Kạn)

    109

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2025 Trang thông tin du lịch