• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
  • UKEnglish

Giá trị lịch sử

Lý Nhân Tông, vị vua lập nên nền giáo học và phát dương Phật giáo Đại Việt

Lý Nhân Tông (chữ Hán: 李仁宗 22 tháng 2 năm 1066 – 15 tháng 1 năm 1128) là vị hoàng đế thứ tư của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ngài trị vì Đại Việt từ năm 1072 đến năm 1128, gần 56 năm và cũng là vị vua có thời gian trị vì lâu nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

Vua tên húy là Lý Càn Đức, con trai đầu của vua Lý Thánh Tông. Năm 1072, Thánh Tông băng hà, Thái tử Càn Đức mới 6 tuổi lên ngôi tức vua Nhân Tông. Mẹ đích của vua Nhân Tông là Thượng Dương Thái hậu cùng Thái sư Lý Đạo Thành phụ chính.

 Tượng thờ vua Lý Nhân Tông trong đền Đô

Tương truyền sau này vua Nhân Tông theo lời mẹ đẻ là Thái phi Linh Nhân, ban Thái hậu Thượng Dương theo hầu vua Thánh Tông. Từ đây, Linh Nhân Thái hậu và Thái úy Lý Thường Kiệt kiểm soát hoàn toàn triều chính. Hai vị đã biếm Lý Đạo Thành vào miền Nam một thời gian rồi phục chức. Thái hậu Linh Nhân cùng các tể thần Lý Thường Kiệt, Lý Đạo Thành là những người có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình trị vì đất nước ngay cả khi vua Nhân Tông đã nắm quyền.

 

Dưới thời trị vì của vua Lý Nhân Tông, Đại Việt phồn vinh, "dân gian có nhiều người giàu có".Vua rất quan tâm đến nông nghiệp – thủy lợi, cho đắp đê ở nhiều nơi và mở rộng luật cấm giết trâu.

Thời Nhân Tông còn nổi bật với sự kiện tổ chức khoa thi Nho học đầu tiên của Đại Việt (1075), xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám (1076). Phật giáo cũng phát triển. Vua và Linh Nhân Thái hậu đều là những Phật tử mộ đạo, xây nhiều chùa tháp và khuyến khích phát dương Phật giáo của các thiền sư.

Năm 1075, nhà Tống dòm ngó Đại Việt, vua Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đánh phủ đầu, liên tiếp phá tan quân Tống ở 3 châu Ung, Khâm, Liêm (đất Tống), sau đó đánh bại quân Tống trên sông Như Nguyệt (đất Việt). Sau năm 1077, giữa hai nước Việt và Tống không còn chiến tranh. Đồng thời Chiêm Thành, Chân Lạp thần phục Đại Việt, xuân thu nhị kỳ đều sang cống.

Mặc dù là vị hoàng đế có thời gian trị vì lâu dài nhưng vua Lý Nhân Tông không có con trai kế thừa ngôi báu. Vua nhận nuôi một người cháu là Lý Dương Hoán rồi lập làm thái tử. Đó là vua Lý Thần Tông, trị vì 11 năm sau khi vua Nhân Tông mất.

Ban thờ tám vị hoàng đế nhà Lý trong đền Đô

Giai đoạn trị vì của vua Lý Nhân Tông cùng thái thượng hoàng Lý Thái Tông và thượng hoàng Lý Thánh Tông được xem là thời thịnh vượng của Nhà Lý, được gọi là Bách niên Thịnh thế (百年盛世).

Vua tên húy Lý Càn Đức, trưởng nam của vua Lý Thánh Tông và Nguyên phi Ỷ Lan. Vua sinh giờ Hợi ngày 25 tháng 1 năm Bính Ngọ (22 tháng 2 dương lịch năm 1066) tại cung Động Tiên, kinh đô Thăng Long.

Vua Lý Thánh Tông hiếm muộn, đến năm 43 tuổi mới sinh được Càn Đức. Đức vua rất vui mừng; chỉ một ngày sau khi hoàng tử sinh ra, Thánh Tông lập Càn Đức làm Hoàng thái tử, đổi niên hiệu thành Long Chương Thiên Tự, đại xá thiên hạ và phong Ỷ Lan làm Thần phi.

Tháng 8 âm lịch năm 1070, Lý Thánh Tông lập Văn miếu, dựng tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối (4 học trò xuất sắc của Khổng Phu Tử), vẽ tranh Thất thập nhị hiền (72 học trò của Khổng Phu Tử) để hương khói bốn mùa. Vua cho Thái tử Càn Đức học tại đây.

Cuốn Đại Việt sử lược được biên soạn vào thời Trần, có mô tả ngoại hình của vua Lý Nhân Tông, húy Càn Đức: "Ngài là người có xương trán nổi lên như mắt trời, ấy là dáng mặt của bậc Thiên tử và tay thì buông dài quá đầu gối".[3]

Lên ngôi hoàng đế

Tháng 1 âm lịch năm 1072, vua Lý Thánh Tông băng hà tại điện Hội Tiên. Thái tử Càn Đức 6 tuổi lên ngôi trước linh cữu, hiệu Lý Nhân Tông. Vua lấy niên hiệu Thái Ninh, tôn chính cung của thượng hoàng là Thượng Dương Hoàng hậu làm Thái hậu nhiếp chính, cùng với Thái sư Lý Đạo Thành cai quản quốc gia. Vua sắc phong mẹ ruột là Ỷ Lan làm Hoàng thái phi. Tháng 4 âm lịch năm 1073, Lý Nhân Tông sắc phong Lý Thường Kiệt, thuộc hàng Đại Liêu Ban làm Kiểm hiệu Thái úy.

Năm 1073, vua Nhân Tông phế truất Thái hậu Thượng Dương. Theo các sách Đại Việt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư, Thái phi Ỷ Lan bất mãn vì không được tham gia trị nước, nên phàn nàn với vua Nhân Tông: "Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú quý người khác được hưởng thế thì sẽ để mẹ già vào đâu?". Nghe lời mẹ, Nhân Tông ra lệnh đưa Thái hậu Thượng Dương vào lãnh cung, rồi ban tử cho Thượng Dương cùng 72 cung nhân đi theo vào lăng Thánh Tông. Thái sư Lý Đạo Thành cũng bị giáng làm Tả gián nghị Đại phu, trấn thủ châu Nghệ An. Sử thần đời Lê sơ Ngô Sĩ Liên nhận xét trong Toàn thư:

“Nhân Tông là người nhân hiếu, Linh Nhân là người sùng Phật, sao lại đến nỗi giết đích Thái hậu, hãm hại người vô tội, tàn nhẫn đến thế ư? Vì ghen là thường tình của đàn bà, huống chi lại mẹ đẻ mà không được dự chính sự. Linh Nhân dẫu là người hiền cũng không thể nhẫn nại được, cho nên phải kêu với vua. Bấy giờ vua còn trẻ thơ, chỉ biết chiều lòng mẹ là thích, mà không biết là lỗi to. Thái sư Lý Đạo Thành phải ra trấn bên ngoài, biết đâu chẳng vì can gián việc ấy?”

Sử gia thế kỷ 20 Hoàng Xuân Hãn trong sách Lý Thường Kiệt – Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý phỏng đoán, trong triều đình đã có xung đột giữa phe của Thái hậu Thượng Dương và Thái sư Lý Đạo Thành với phe của Thái phi Ỷ Lan và Thái úy Lý Thường Kiệt:

Vua Lý Nhân Tông sau đó tôn mẹ đẻ Thần phi Ỷ Lan là Thái hậu nhiếp chính, hiệu là Linh Nhân Hoàng thái hậu. Thái hậu Linh Nhân cùng Thái úy Lý Thường Kiệt giúp vua cai quản quốc gia.

Mùa xuân năm 1074, vua xuống chiếu phục chức Lý Đạo Thành làm Thái phó bình chương Quân quốc trọng sự. Lý Đạo Thành làm Tể tướng đến khi mất năm 1081.

Chiến tranh chống quân xâm lược nhà Tống

Khi vua Nhân Tông lên ngôi, nhà Tống muốn nhân lúc vua Lý còn nhỏ, mang quân đánh chiếm Đại việt. Thái úy Lý Thường Kiệt, với tài năng quân sự kiệt xuất, đã lãnh đạo quân dân Đại Việt giành chiến thắng trong cuộc chiến với quân xâm lược nhà Tống.

Năm 1075, ngay khi nhà Tống đang tập kết lực lượng ở Ung Châu chuẩn bị tiến sang, Lý Thường Kiệt chủ động xuất binh đánh sang đất Tống tiên phát chế nhân. Sang đầu năm 1076, quân Lý hạ thành Ung châu.

Năm Bính Thìn (1076), nhà Tống cử Quách Quỳ, Triệu Tiết đem đại binh sang xâm lược Đại Việt. Quân binh nhà Lý dưới sự chỉ huy của Phụ quốc Thái úy Lý Thường Kiệt đánh bại đội quân xâm lược Tống trên chiến tuyến sông Như Nguyệt. Năm 1077, Quách Quỳ chấp nhận cho Đại Việt giảng hòa và rút quân trở về.

Bách niên Thịnh thế thời vua Lý Nhân Tông

Triều đại Lý Nhân Tông chứng kiến sự phát triển của nền giáo dục khoa bảng Đại Việt. Mùa xuân năm 1075, ông mở khoa thi Tam trường (còn gọi là Minh kinh bác học) để chọn người có tài văn học ra giúp nước. Đây là khoa thi đầu tiên của nền khoa cử Việt Nam.

Triều đình chấm đỗ 10 người, thủ khoa là Lê Văn Thịnh được vào cung dạy học cho vua. Sau này, Lê Văn Thịnh làm đến chức Thái sư, nhưng đến mùa đông năm 1095 thì bị cách chức và đi đày vì "mưu làm phản".

Tháng 2 âm lịch năm 1077, vua Lý Nhân Tông tổ chức thi lại viên để tuyển chọn quan lại với 3 môn: thư (viết chữ), toán và hình luật. Mùa thu năm 1086, nhà vua lại mở khoa thi chọn người có tài văn học vào Viện Hàn lâm. Mạc Hiển Tích đỗ đầu khoa ấy, được vua Lỹ Nhân Tông sắc phong Hàn lâm học sĩ.

Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập Quốc Tử Giám – trường đại học đầu tiên ở Việt Nam, và chọn những văn thần giỏi vào giảng dạy. Cùng năm đó, ông ban chiếu cầu lời nói thẳng.

 

Lý Nhân Tông là vị vua đầu tiên khởi công đắp những con đê lớn của Đại Việt. Tháng 9 âm lịch năm 1077, triều đình sai đắp đê trên sông Như Nguyệt, sách Đại Việt sử lược mô tả đê này "dài 67.380 bộ".

 Đại Việt sử lược cũng chép rằng năm 1103, nhà vua ra lệnh cho nhân dân Thăng Long làm đê chống lũ, ở cả nội đô lẫn ngoại ô. Mùa xuân năm 1108, vua Nhân Tông sai đắp đê tại Cơ Xá – đây là đoạn đê sông Hồng gần cầu Long Biên ngày nay.

Mùa xuân năm 1089, Nhân Tông cải cách hệ thống quan lại triều đình; vua phân bố các quan theo 9 phẩm trật. Các quan đầu triều gồm thái sư, thái phó, thái bảo và thiếu sư, thiếu úy, quản lý cả hai ban văn võ.

Dưới những bậc quan đầu triều, Ban văn có thượng thư, tả hữu tham tri, tả hữu gián nghị đại phu, trung thư thị lang, bộ thị lang. Ban võ có đô thống, nguyên súy, tổng quản khu mật sứ, khu mật tả hữu sứ, kim ngô thượng tướng, đại tướng, đô tướng, tướng quân các vệ (chỉ huy các vệ quân gồm Kiêu vệ, Uy vệ và Định Thắng vệ v.v...

Ở các châu quận, văn thì có tri phủ, tri châu; võ thì có đại tướng quân trấn thủ các lộ, trấn và trại.

Không chỉ khuyến khích giáo dục Nho học, vua Lý Nhân Tông cũng là một Phật tử mộ đạo. Vua và Thái hậu Linh Nhân cho dựng nhiều chùa tháp trong nước. Nhà vua mở rộng đến sắc phong nhà sư Khô Đầu làm Quốc sư, nhưng chỉ giới hạn trong tham vấn giúp hoàng đế trong thực thi pháp luật và ứng xử trong quốc gia đại sự. Vua định các chùa trong nước làm ba cấp: đại, trung và tiểu danh lam, cho quan văn chức cao kiêm làm Đề cử. Lúc đó nhà chùa có điền nô và tài sản, nên đặt chức ấy.

Mùa thu, tháng 9 năm 1105, vua sai dựng hai ngọn tháp chỏm trắng ở chùa Diên Hựu, ba ngọn tháp chỏm đá ở chùa Lãm Sơn. Vua cho trùng tu chùa Diên Hựu đẹp hơn xưa, đào hồ Liên Hoa Đài, gọi là hồ Linh Chiểu. Ngoài hồ có hành lang chạm khắc chung quanh, ngoài hành lang lại đào hồ tụ thuye gọi là hồ Bích Trì. Trên các hồ đều bắc cầu kiều. Trước sân chùa xây bảo tháp.

Hàng tháng cứ ngày rằm, mồng một và mùa hạ, ngày mồng 8 tháng 4, xa giá ngự đến, đặt lễ cầu phúc, bày nghi thức tắm Phật, hàng năm lấy làm lệ thường.

Năm 1117, vua Nhân Tông theo lời khuyên của Thái hậu, ra luật cấm giết trâu bò bừa bãi: ai mổ trộm trâu bị phạt 80 trượng và tội đồ làm người hầu trong quân đội; người giết trâu và ăn trộm trâu đều phải bồi thường; hàng xóm biết mà không tố cáo cũng bị phạt 80 trượng. Thời điểm thịnh trị, đất nước thường được mùa lớn nên khi hạn hán mất mùa thường phát chẩn kho lương, giảm tô dịch, quốc gia cường thịnh. Vua Nhân Tông thường xa giá thăm thú thu hoạch mùa màng ở mọi nơi, cũng như xem bắt voi, lễ hội,... cho thấy sự cường thịnh của Đại Việt.

Quốc trị

Dẹp trừ nội loạn

Tháng 10, năm 1103, người Diễn Châu là Lý Giác mưu làm phản. Giác trước học được thuật lạ, có thể biến cây cỏ làm người, bèn chiêu tập những kẻ vô lại chiếm cứ châu ấy, đắp thành làm loạn. Việc tâu lên, vua sai Thái úy Lý Thường Kiệt đi đánh. Giác thua trốn sang Chiêm Thành, dư đảng đều bị dẹp yên. Thuận theo lúc đó, Quốc vương Chiêm Thành Chế Ma Na cử quân qua đánh phá biên giới, muốn đòi lại 3 châu mà Chế Củ trước đây đã dâng cho Lý Thánh Tông. Thái úy Lý Thường Kiệt xuất binh đánh bại, Chế Ma Na phải trao trả lại đất và xin thuần phục như cũ.

Tháng 7 năm 1119, Nhân Tông thân chinh dẫn đại binh đánh động Ma Sa. Vua chuẩn bị rất kỹ lưỡng, duyệt sáu binh tào Vũ Tiệp, Vũ Lâm v.v..., người nào mạnh khỏe cho làm Hỏa đầu ở các đội quân Ngọc Giai, Hưng Thánh, Bổng Nhật, Quảng Thành, Vũ Đô, còn bậc dưới thì cho làm binh lính ở các quân Ngọc Giai, Hưng Thánh, Bổng Nhật, Quảng Thành, Vũ Đô, Ngự Long.

Vua hội quân cả nước thề ở Long Trì. Ban chiếu rằng:

Trẫm nhận lấy cơ nghiệp của một tổ hai tông, trị vì dân đen, coi triệu họ trong bốn biển đều như con đỏ, cả đến cõi xa cũng mến lòng nhân mà quy phụ, phương khác cũng mộ nghĩa mà lại chầu. Vả xét dân động Ma Sa sống ở trong cõi của ta, động trưởng Ma Sa thì đời đời làm phiên thần của ta, thế mà nay kẻ tù trưởng ngu hèn ấy bỗng phụ ước của ông cha, quên việc tuế cống khiếm khuyết lệ thường phép cũ. Trẫm vẫn nghĩ mãi, việc không đừng được, nay trẫm tự làm tướng đi đánh dẹp. Nay các tướng súy sáu quân, các ngươi đều phải hết lòng, tuân theo mệnh lệnh của trẫm.

Bèn ban cờ xí việt cho tướng lĩnh, vua ngự thuyền Cảnh Hưng, xuất phát từ bến Thiên Thu, cờ xí rợp trời, gươm giáo rẽ sương, quân sĩ đánh trống reo hò, khí thế hừng hực.

Nhân Tông Hoàng đế tự làm tướng đánh động Ma Sa, phá tan loạn quân, bắt bọn động trưởng Ngụy Bàng vài trăm người, thu vàng, lụa, trâu, dê không kể xiết. Sai tỳ tướng vào các động dọc biên giới chiêu dụ những người trốn tránh bảo về yên nghiệp.

Ngoại giao với các quốc gia láng giềng

Năm 1089, Thị lang Bộ binh Lê Văn Thịnh được cử sang trại Vĩnh Bình cùng với người Tống bàn việc cương giới. Bấy giờ, sau khi đánh bại quân Tống, triều đình ngay lập tức thông hiếu và thỏa thuận trao trả tủ binh, đất đai.

Trước đó, Đào Tông Nguyên đem biếu nhà Tống năm con voi thuần, xin trả lại các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu và những người các châu ấy bị bắt đi. Cuối cùng, nhà Tống trả lại cho Đại Việt 6 huyện và 3 động, đổi lại triều đình trả lại tù binh của 3 châu Khâm, Liêm, Ung bị bắt khi Thái úy Lý Thường Kiệt kéo quân sang đánh Tống.

Sau sự kiện Chế Ma Na dậy binh làm loạn, quan hệ giữa nhà Lý và Chiêm Thành dần trở lại như trước. Chiêm Thành năm nào cũng tiến cống vàng bạc, châu báu và thổ sản, triều đình cũng thường xuyên giữ thể diện cho sứ thần Chiêm Thành, mời tham dự các nghi lễ như tắm Phật, lễ hội, khánh thành chùa chiền và xem hội vương hầu đá cầu ở Long Trì. Năm 1123, nước Chân Lạp sang quy phụ và xin triều cống thường lệ, y như Chiêm Thành.

Tháng 12, năm 1124, tiểu thủ lĩnh châu Quảng Nguyên là Mạc Hiền và phe đảng bộ thuộc trốn sang động Cống ở địa giới Ung Châu nước Tống. Đầu năm 1125, Ung Châu bắt bọn Mạc Hiền, xin sai người đến Giang Nam để giao trả. Hoàng đế sai người giữ phủ Phú Lương là Trung thư Lý Hiến đến Giang Nam nhận đem về kinh sư. Đày Mạc Hiền vào châu Nghệ An, vợ con đều sung làm nô.

Cuối năm 1126, triều đình sai lệnh thư gia là Nghiêm Thường, ngự khố thư gia là Từ Diên đem 10 con voi thuần và vàng bạc, sừng tê, sừng bin sang biếu nhà Tống để tạ ơn việc bắt Mạc Hiền. Thường và Diên đến Quế phủ[24] vào ra mắt quan Kinh lược ty.

Quan quân Ung Châu bảo với Thường và Diên rằng: Năm nay ở Đông Kinh và các xứ Hồ Nam, Đĩnh Châu, Lễ Châu đều đã đem binh mã đi đánh người Kim, chưa biết lúc nào về. Trong lúc này thì ngựa trạm, phu trạm dọc đường chỗ nào cũng ít, xin sứ giả đem lễ vật về. Thường và Diên phải trở lại. Năm ấy người nước Kim là Niêm Hãn, Cán Lý Bất đem quân vây Biện Kinh nước Tống, bắt Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông đem về phương Bắc, đó là sự kiện Tĩnh Khang.

Mùa đông, tháng 11 năm 1127, Khâm Châu nước Tống đưa trả nghịch đảng ở châu Quảng Nguyên là bọn Mạc Thất Nhân, dư đảng của Mạc Hiền.

Sau sự kiện năm 1073, nhà Tống nhún nhường đối với Đại Việt, mối quan hệ trở nên quân bình ngang hàng. Triều Lý cũng hết sức quan tâm tình hình của nhà Tống lúc đó khi bị nhà Kim xâm lấn ở phương Bắc, thăm dò tình hình quân Khiết Đan từ phương xa.

Lập thái tử là con nuôi

Bấy giờ, Nhân Tông đã có tuổi mà vẫn không có con trai để nối dõi, dù trong cung nhà vua có đến hàng nghìn cung tần mỹ nữ và Hoàng hậu, Hoàng phi.

Đến tháng 10, năm 1117, Thái hậu Ỷ Lan từ trần, vua Nhân Tông vẫn không có hi vọng về huyết mạch nối dõi, xuống chiếu ban ra trong hoàng tộc, tuyên rằng: Trẫm cai trị muôn dân mà lâu không có con nối, ngôi báu của thiên hạ biết truyền cho ai? Vậy nên trẫm nuôi con trai của các công hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng, chọn người giỏi lập làm Thái tử. Bấy giờ con Sùng Hiền hầu là Lý Dương Hoán mới lên 2 tuổi mà thông minh lanh lợi, Nhân Tông rất yêu và bèn lập làm Hoàng thái tử.

Băng hà

Tháng Chạp năm Đinh Mùi, vua Lý Nhân Tông ốm nặng. Ông gọi các đại thần Lưu Khánh Đàm và Lê Bá Ngọc vào giao việc giúp Thái tử Lý Dương Hoán. Về việc tang lễ, ông dặn:

"Trẫm nghe phàm các loài sinh vật không loài nào không chết. Chết là số lớn của trời đất, lẽ đương nhiên của mọi vật. Thế mà người đời không ai là không thích sống mà ghét chết. Chôn cất hậu làm mất cơ nghiệp, để tang lâu làm tổn tính mệnh, trẫm không cho là phải.

Ta đã ít đức, không lấy gì làm cho trăm họ được yên, đến khi chết đi lại khiến cho thứ dân mặc áo xô gai, sớm tối khóc lóc, giảm ăn uống, bỏ cúng tế, làm cho lỗi ta thêm nặng, thiên hạ sẽ bảo ta là người thế nào! Trẫm xót phận tuổi thơ phải nối ngôi báu, ở trên các vương hầu, lúc nào cũng nghiêm kính sợ hãi. Đã 56 năm nay, nhờ anh linh của tổ tông, được hoàng thiên phù hộ, bốn biển yên lành, biên thùy ít biến, chết mà được xếp sau các bậc tiên quân là may rồi, còn phải thương khóc làm gì? Trẫm từ khi đi xem gặt lúa đến giờ, bỗng bị ốm, bệnh kéo dài, sợ không kịp nói đến việc nối ngôi. Mà Hoàng thái tử Dương Hoán tuổi đã tròn một kỷ, có nhiều đại đội, thông minh thành thật, trung nghiêm kính cẩn, có thể theo phép cũ của trẫm mà lên ngôi Hoàng đế. Nay kẻ ấu thơ chịu mệnh trời, nối thân ta truyền nhgiệp của ta, làm cho rộng lớn thêm công nghiệp đời trước. Nhưng cũng phải nhờ quan dân các ngươi một lòng giúp rập mới được. Này Bá Ngọc, ngươi thật có khí lượng của người già cả, nên sửa sang giáo mác, để phòng việc không ngờ, chớ làm sai mệnh, trẫm dù nhắm mắt cũng không di hận. Việc tang thì chỉ 3 ngày bỏ áo trở, nên thôi thương khóc; việc chôn thì nên theo Hán Văn Đế, cốt phải kiệm ước, không xây lăng mộ riêng, nên để ta hầu bên cạnh tiên đế".   ”

Ngày Đinh Mão (tức ngày 15 tháng 1 năm 1128), vua Lý Nhân Tông băng hà tại điện Vĩnh Quang, ở ngôi 55 năm, thọ 61 tuổi. Ông được tôn miếu hiệu là Nhân Tông (仁宗), thụy hiệu là Hiếu Thiên Thể Đạo Thánh Văn Thần Vũ Sùng Nhân Ý Nghĩa Hiếu Từ Thuần Thành Minh Hiếu Hoàng Đế (憲天體道聖文神武崇仁懿義孝慈純誠明孝皇帝).

Nội vũ vệ Lê Bá Ngọc tuyên đọc chiếu chỉ và giúp vua nhỏ tuổi trị nước, cùng với các đại thần Dương Anh Nhĩ, Mâu Du Đô. Thái tử Lý Dương Hoán lên nối ngôi, tức là Lý Thần Tông.

Tác phẩm của Lý Nhân Tông hiện chỉ còn ba bài thơ, một vài bức thư gửi triều đình nhà Tống, bốn bài hịch và chiếu. Tất cả đều viết bằng chữ Hán.

Ba bài thơ tứ tuyệt đều thuộc loại thơ thù tặng, gồm: "Truy tán Vạn Hạnh Thiền sư" (Truy khen Thiền sư Vạn Hạnh), "Tán Giác Hải Thiền sư, Thông Huyền Đạo nhân" (Khen Thiền sư Giác Hải và Đạo sĩ Thông Huyền), "Truy tán Sùng Phạm Thiền sư" (Truy khen Thiền sư Sùng Phạm).

Bức thư có giá trị nhất có tên là "Thỉnh hoàn Vật Dương, Vật Ác nhị động biểu". Đây là bức thư gửi cho hoàng đế Nhà Tống, nhân hội nghị Vĩnh Bình giữa hai nước, nhằm đòi lại hai động là Vật Dương và Vật Ác. Lời lẽ trong thư mềm mỏng, khiêm nhượng, nhưng vẫn khôn khéo vạch được mưu mô chiếm đất và sự dối trá của nhà Tống.

Bài chiếu có nhiều nét ý vị là bài "Lâm chung di chiếu" (Chiếu để lại lúc mất). Đây là bài văn biểu lộ rõ phong cách của một hoàng đế, cho thấy tấm lòng nhân hậu, cao cả, không muốn lạm dụng địa vị cao sang để phiền nhiễu dân; chỉ mong ước trước sau giữ được "trăm họ được yên", "bốn bể yên vui, biên thùy ít loạn”.

Nguồn: Wikipedia

Trở về đầu trang
   Vua Lý Nhân Tông nền giáo dục chiến thắng nhà Tống Văn Miếu Quốc tử giám
0   Tổng số:

Các tin khác

  • Ngành Du lịch Quảng Ninh bứt tốc đón vận hội mới
  • Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng Thủ tướng Thái Lan tham quan triển lãm sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam
  • Cần Thơ: Kích cầu du lịch hè 2025
  • Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam tổ chức Triển lãm “Hồ Chí Minh trong nghệ thuật tạo hình”
  • Khai mạc triển lãm “Chủ tịch Hồ Chí Minh - Tinh hoa dân tộc, Tầm vóc thời đại”
  • Làng Sen, điểm hẹn tháng 5
  • Phú Quốc sẽ có cảng hàng không quốc tế hiện đại trước thềm APEC 2027
  • Bắc Ninh: Tham quan Đền Đô và đình Đình Bảng bằng công nghệ thực tế ảo
  • Tăng cường quảng bá du lịch, Lâm Đồng hướng tới mục tiêu tăng trưởng những tháng cuối năm
  • Tôn trí Xá lợi Phật tại chùa Quán Sứ (Hà Nội) đến ngày 16/5
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Mèo Vạc (Hà Giang): Điểm hẹn du lịch trên Cao...

    Đến Cao nguyên đá Đồng Văn, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang chắc hẳn sẽ là điểm đến không...

    152
  • Sơn La: Du lịch thể thao đa dạng và hấp dẫn

    Du lịch thể thao, là loại hình du lịch kết hợp giữa hoạt động du lịch và tham gia hoặc...

    106
  • Thúc đẩy du lịch gắn với bảo tồn động vật hoang...

    Những năm gần đây, các tour du lịch khám phá thiên nhiên và bảo tồn động vật hoang dã đặc...

    105
  • Du lịch dịp nghỉ lễ 30/4-1/5: người Hà Nội tìm về...

    Kỳ nghỉ lễ 30/4-1/5 năm nay kéo dài 5 ngày liên tục. Thay cho những chuyến đi xa, nhiều...

    104
  • Quảng Ninh: Chú trọng bảo tồn, phát huy giá trị...

    Trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh hiện có 636 di tích/cụm di tích, trong đó, 8 di tích cấp...

    101

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2025 Trang thông tin du lịch