Thánh Mẫu thuộc di duệ họ Triệu. Từ khi họ Triệu mất nước, bà phải trốn tránh quân Hán, sống lưu lạc rồi đến cư ngụ ở chùa Quảng Hưu, xã An Lãng, huyện Chu Diễn; nay là xã Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Bà vốn là người con gái xinh đẹp tài sắc vẹn toàn. Bà có 5
người con trai, cả 5 đều có sức tài hùng dũng, chí khí hơn hẳn người thường, lại
tinh thông võ nghệ, giỏi văn chương, ý chí như biển rộng.
Tương truyền, 5 người con của bà được sinh ra cùng một bọc
do giấc mộng tình với vị thần Vịt ở xứ này, nở ra từ 5 quả trứng. Cũng bởi vậy,
Bà đặt tên cho 5 con đều có chữ "áp Lang", nghĩa là chàng Vịt.
Đến tuổi trưởng thành, cũng là thời kì Nhị chúa Hai Bà Trưng
phát động khởi nghĩa, năm anh em đều đến hội với Bà Trưng ở cửa sông Hát, đem
theo hơn 1000 người là quân bản bô, được Bà Trưng thu dùng ở trong quân và sắc
phong danh tính, chức vị.
Một người được phong làm Triều đình Áp Lang tướng quân. Một
người được phong là án sát vụ tướng quân. Một người được phong là Quý Minh đại
vương. Một người được phong làm Điều Lương tướng quân chuyển vận hướng mễ. Một
người được phong làm Cương Đoán tướng quân hướng tiền đại lộ.
Cùng trong đại quân của Hai Bà Trưng, 5 vị tướng quân đốc xuất
quân thuỷ, quân bộ thẳng tiến đến thành Tô Định giao chiến. Thắng bại chưa
phân, một số quân sĩ của Hai Bà Trưng không quen thuỷ thổ, phần lớn mắc chứng
thương hàn, trở ngại đến công cuộc hành quân.
Áp Lang tướng quân tìm được vị thuốc để chạy chữa, số quân mắc
bệnh mau chóng khoẻ mạnh trở lại. Trong quân vô cùng hoan hỉ, đồng lòng như một,
xông lên đánh thành. Quân của Tô Định chết nhiều vô kể, thây chất đầy đồng,
tràn ngập lối đi, chỉ có Tô Định là thoát được. Nhị vua Hai Bà Trưng thu hồi hết
đất đai bờ cõi, được tất cả 65 thành ở Lĩnh Nam, xung Vương, định công ban thưởng
cho các tướng sĩ.
Ba năm sau, thất bại ở Cấm Khê, Hai Bà Trưng hy sinh, 5 vị
tướng từ trong vòng vây của quân thù mang được thi hài Nhị vua Hai Bà Trưng an
táng ở Hi Sơn. (thuộc làng He, phường Phúc Thắng, thị xã Phúc Yên).
Mai táng cho Nhị vương xong xuôi, các tướng cùng dẫn quân nhằm
thẳng vào quân giặc, chém được hơn 200 đầu giặc. Rồi vừa đánh vừa rút. Tướng
Hán truyền lệnh cho quân sĩ không được bắn lén để bắt sống, nhưng năm vị vương
nhờ thế mà thoát nạn, rút chạy về quê hương (An Lãng), thu thập sĩ tốt để chống
lại quân giặc. Tuy nhiên, phía trước không có quân cứu viện, phía sau không có
tiếp ứng, mà quân Hán lại ra sức truy bức, tiến lui đều khó. Đến nửa đêm, 5 vị
vương chạy đến giữa đồng xứ Cổ Lộ. Biết không còn đường thoát, 5 vị Vương mới
ngửa mặt lên trời mà than: "Cúi mong trời cao xét đến, sau khi chết có
thiêng liêng nguyện được cùng Hai Bà Trưng gặp gỡ, không thẹn trong đời mình
không gặp được người hợp ý, ơn ấy không còn hối tiếc gì nữa”. Sau đó tự vẫn, đó
là ngày mồng 10 tháng Năm năm Nhâm Dần (42 sau CN). Dân làng An Lãng lập đền thờ
ở đây và đến cúng tế hàng năm.
Đến đời Vua Trần Nhân Tông (1279 - 1293), nhân đại thắng
quân Nguyên Mông lần thứ 3 (năm 1288), bắt sống tướng Ô Mã Nhi, nhận được lời
khai của dân xã An Lãng, mới gia phong Phúc thần bậc thượng đẳng. Các triều đại
về sau đều có sắc phong bách thần, tặng các "mĩ tự", cho thờ cúng.
- Bà Triệu Thị Khoan Hoà được thôn Minh Lương và 3 xã (cũ)
là Xuân Lãng Yên Lan vả Hơn Lễ cùng thờ cúng.
- Vị thần Triều đình Áp Lang Nga hoàng đại vương Hoàng Lạc
nghĩa dũng tướng quân được xã Yên Lan thờ cúng.
- Vị thần giám sát đại vương nhung vụ tướng quân được 3 xã
Yên Lan, Hợp Lễ, Xuân Lãng cùng thờ cúng.
- Vị thần Ô Mễ đại vương Đốc vận hướng mễ tướng quân được xã
Xuân Lãng thờ cúng.
- Vị Quý Minh đại vương thượng đẳng thần được xã Hợp Lễ thờ
cúng.
- Vị thần Cương Đoán đại lộ đại vương được 3 xã Yên Lan, Hợp
Lễ, Xuân Lãng cùng thờ cúng.
Thánh Mẫu Triệu Thị Khoan Hòa
Tín ngưỡng thờ Mẫu được phát triển từ rất sớm trong phong tục
tập quán của người dân Việt Nam. Đó không chỉ là một thói quen tốt đẹp mà còn
thể hiện ý thức sâu nặng nhớ về cội nguồn, nhớ về tổ tiên, nhữngđấng sinh
thành.
Tín ngưỡng thờ Mẫu đã có những tác động tích cực đến các giá
trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam. Trải qua các giai đoạn phát triển
của loài người từ chế độ mẫu hệ thị tộc tới thời kỳ hiện đại ngày nay vai trò
quan trọng của người mẹ vẫn luôn được khẳng định, chính vì vậy cùng với tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ mẹ thuần Việt trở thành Đạo thờ Mẫu thuần Việt
trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Tại các chùa chiền Việt Nam từ xưa đến nay
ngoài chính điện thờ Phật, bao giờ cũng có ban thờ Mẫu và thờ các mẫu trong đạo
Mẫu.
Vĩnh Phúc là tỉnh vinh dự được thờ cả ba Mẫu đặc trưng trong
đạo mẫu Việt Nam: Quốc Mẫu, Vương Mẫu và Thánh Mẫu. Quốc Mẫu được thờ tại Tây
Thiên – Tam Đảo; Vương Mẫu được thờ tại đền thờ Hai Bà Trưng - Mê Linh (Vĩnh
Phúc cũ nay thuộc Hà Nội), Thánh Mẫu được thờ tại Thanh Lãng – Bình Xuyên.
Đền Thánh Mẫu tại xã Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên là một dẫn
chứng cụ thể cho tín ngưỡng thờ thánh Mẫu trong đạo Mẫu của người Việt
Nam. Đền là nơi thờ vị Thánh Mẫu người sinh thành ra năm anh em chàng Vịt có công
trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Ngôi đền đã góp phần không nhỏ vào sự hình
thành và phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu Thánh tại Vĩnh Phúc. Hiện nay đền
còn lưu giữ cuốn ngọc phả về “Sự tích đức Thánh Mẫu và năm vị đại vương” theo
đó: “Thánh Mẫu” là cháu ngoại của Triệu Vũ Đề, tên là Triệu Thị Khoan Hoà, là
người con gái nhan sắc tuyệt vời nên được lấy làm thứ phi của vua Triệu Vệ
Dương Vương.
Khi nhà Triệu sụp đổ bởi nhà Hán, vua Triệu Vệ Dương Vương bị
bắt đem vềphương Bắc, bà phải mai danh ẩn tích lánh đi nơi khác. Đến chùa Quảng
Hựu xã Thanh Lãng huyện Bình Xuyên thấy phong cảnh chùa yên tĩnh bèn ở lại
chùa.
Trong một đêm trăng thanh gió mát bà nằm chiêm bao thấy vị thần
tự xưng là thần Vịt đến gặp bà, sau đó khi tỉnh dậy biết mình đã nằm mơ.
Nhưng thật kì lạ, sau hôm nằm chiêm bao bà đã mang thai và sinh ra năm người
con trai khôi ngô tuấn tú.
Liệt Mẫu Triệu Thị Khoan Hoà tuy không trực tiếp đứng dưới cờ
của Hai BàTrưng, nhưng bằng sự giáo dưỡng của Bà, năm người con trai đã trởthành
những vị tướng lĩnh tài giỏi và hiếu nghĩa giúp Hai Bà Trưng giành được độc lập.
Sau này Bà được nhân dân tôn xưng, lập đền thờ tự khi bà mất
(theo sử sách ghi lại bà mất tại chùa vào ngày 10 tháng 11 âm, được nhân dân
mai táng tại khu Minh Lương xã Thanh lãng.
Danh hiệu Mẫu của Bà được suy tôn từ trong số các nữ thần được
thờcúng trong một số làng xã tại Vĩnh Phúc. Trải qua các triều đại, Bà được
truy phong ở hàng Thánh Mẫu năm Khải Định thứ 9 (1924) và sau này là“Thượng Đẳng
Phúc Thần” được toàn dân thờ phụng, tưởng niệm với lòng thành kính.
Trong chiến tranh, mảnh đất Thanh Lãng đã bị tàn phá nặng nề,
nhưng cho đến nay khu đền Thánh Mẫu vẫn được người dân bảo vệ chu đáo. Các di vật
quý như: các sắc phong, bàn thờ, đòn kiệu và các đồ tế khí…vẫn còn cho đến ngày
nay.
Hàng năm cứ vào ngày 10 tháng 11 (âm lịch), người dân Thanh
Lãng lại mở hội làng. Người người náo nức đua nhau đi xem hội với các trò vui
như: vật cổ truyền, đánh cờ, và cùng nhau rước kiệu... Ngày hội không những là
ngày vui của làng mà còn là dịp để con cháu và du khách thập phượng tụ hội, tưởng
nhớ tới vị Thánh Mẫu người có công sinh thành ra năm anh em chàng Vịt.
Nhằm răn dạy con cháu nhớ về nguồn cội, nhận ra những giá trị
văn hoá, nghệ thuật đậm đà bản sắc dân tộc và những tác động không nhỏ của tín
ngưỡng thờ mẫu đến văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Chủ chương chính sách phát triển du lịch của tỉnh luôn chú
trọng du lịch tâm linh “Về với Mẫu”. Chính vì vậy các đền thờ Mẫu tại Vĩnh Phúc
nhận được sự quan tâm sâu sắc của chính quyền địa phương và người dân trong việc
tu bổ và gìn giữ những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể.
Nguồn: Du lịch Vĩnh Phúc
Ths Nguyễn Thy Ngà tổng hợp