Lý Thái Tông là miếu hiệu của Lý Phật Mã, con trưởng Thái tổ Lý Công Uẩn. Lý Phật Mã sinh tại Hoa Lư ngày 26 tháng 6 năm Canh Tý năm 1000 dương lịch. Đấy là thời trị vì của Hoàng đế Lê Đại Hành nhà Tiền Lê, niên hiệu Ứng Thiên năm thứ 7.
Tượng Lý Thái Tông Hoàng đế.
Khi vua Lý Công Uẩn trở thành Thuận Thiên hoàng đế, khai
sáng vương triều nhà Lý vào năm 1009, thì con trưởng của ông, Lý Phật Mã được
chọn làm người kế vị ngai vàng: hoàng thái tử. Vị thái tử 10 tuổi, khi theo phụ
hoàng dời đô cũ Hoa Lư, lên Thăng Long, định đô mới, từ đấy đã trở thành “Người
Thăng Long”.
Hai năm sau, vào năm Nhâm Tý, niên hiệu Thuận Thiên năm thứ
3 (1012) giữa tân đô Thăng Long, Lý Phật Mã, 12 tuổi, chính thức được phong tước
vương, trở thành “Khai Thiên Vương” và được xây cho một tòa cung điện riêng:
cung Long Đức. Tòa cung điện này có một vị trí quan trọng trong đời của Hoàng
thái tử Lý Phật Mã.
Nhưng trước hết, cung điện có một ý nghĩa đặc biệt. Ở phía
đông hoàng cung là một quần thể kiến trúc nguy nga đồ sộ, gồm 8 điện 3 cung,
châu tuần quanh tòa chính điện Càn Nguyên ngự trên đỉnh núi Nùng của phụ hoàng
Lý Thái Tổ, nhưng cung Long Đức của Đông cung thái tử Khai Thiên Vương lại
không được vua cha cho xây cận kề hoàng cung, mà lại đưa ra ngoài cửa Đông - cửa
“Tường Phừ” (điềm lành), cấy vào giữa khu dân cư kinh thành. Sử cũ đời sau đã
sáng suốt bình luận về ý nghĩa của hành động này: đó là do “ý chỉ (của hoàng đế)
muốn cho thái tử hiểu biết mọi việc của dân!”
Chắc chắn đó là một ý định tốt lành, nằm trong một chủ
trương trọng đại của Lý Thái Tổ và triều đình nhà Lý: chọn lựa, đào tạo và rèn
luyện công phu người kế ngôi hoàng đế! Và trước hết, đó phải là một người “hiểu
biết mọi việc của dân", vì sống gần dân! Chính nhờ vậy, mà về sau, khi đã
trở thành vị hoàng đế thứ hai của triều Lý, Lý Phật Mã vẫn và đã có được những
lời hay ý đẹp, chẳng hạn như câu sau đây đã được sử cũ ghi nguyên lại (trong
biên niên sử về năm 1039); "Trẫm là người ít đức, đứng đầu thần dân, dậy sớm
thức khuya, lúc nào cũng lo sợ như lội vực sâu..." (Đại Việt sử ký toàn
thư. Bản kỷ, Quyển II)....
Cũng chắc chắn rằng, trong việc đào tạo, rèn luyện cho người
rồi sẽ quản trị đất nước, vì cũng còn là người xuất thân võ tướng, nên Vua Lý
Thái Tổ đã hướng kỹ con trai mình vào binh nghiệp.
Theo định hướng ấy, vừa đến tuổi trưởng thành, vào các năm
1020, 1024, 1026, 1027, Lý Phật Mã đã bốn lần được vua cha xuống chiếu, trao
cho trọng trách cầm quân đi chiến trường, hết lên Phong Châu trên mạn Tây Bắc,
châu Thất Nguyên ở mạn Đông Bắc đánh dẹp các thể lục “nội phản” thuộc miền biên
viễn núi non, lại vào Bố Chính, Diễn Châu ở hướng nam gió cát nắng nóng, chống
lại sự quấy phá của lân bang Chiêm Thành.
Trong tất cả những lần mang cờ nguyên soái xuất chinh, vị
thái tử đang độ tuổi hai mươi đều lập võ công, chiến thắng, mà hiển hách nhất là
trận núi Mũi Rồng (Long Ty - Quảng Trạch, Quảng Bình hiện nay năm 1020, chém tại
trận tướng địch Bố Linh, tiêu diệt đến quá nửa tinh binh của đạo quân Chiêm
Thành gây hấn.
Với truyền thống là võ tướng cầm quân đã thành hình và ổn định
ngay từ trong quá trình được đào tạo, rèn luyện ở độ tuổi thanh xuân như thế, đến
khi vào tuổi trung niên, trở thành vị vua thứ hai của Lý triều, trị vì nước Việt,
kế nghiệp vua cha Thái Tổ. Lên ngôi hoàng đế, hoàng tử Lý Phật Mã bộc lộ rõ nét
nhân cách của vị vua - võ tướng.
Trên ngôi báu 27 năm (1028-1054), thọ 55 tuổi (1000-1054),
Lý Thái Tông là vị hoàng đế, vượt trên tất cả các đời vua nhà Lý, chiếm kỷ lục
về số lần xuất chinh thân chinh, cầm quân đánh bại hầu hết các loại giặc nội phản
và ngoại xâm.
Trung bình cứ hai ba năm một lần, vị vua nhà Lý đệ nhị hoàng
đế có tất cả 8 lần thân chinh cầm cờ soái ra trận! Vừa lên ngôi vào tháng ba
(âm lịch) năm 1028, đến tháng tư, ông trao kinh thành Thăng Long cho chức Nội
thị Tướng quân Lý Nhân Nghĩa quản thủ, thân chinh đánh dẹp cuộc nổi dậy của
chính em trai mình Khai Quốc vương (Lý) Bồ, ở phủ Trung Yên - chính vừa mới
thành cố đô Hoa Lư!
Sang đến năm thứ hai của niên hiệu Thiên Thành, sắc phong
cho hoàng tử Lý Nhật Tồn làm Đông cung thái tử, trao cho vị thái tử 7 tuổi chức
vụ giảm quốc, chịu trách nhiệm trông coi kinh đô Thăng Long, Vua lại dẫn quân
lên đường đánh dẹp vụ "giáp Đan Nải (Đan Nê) ở châu Ái (Thanh Hóa) làm phản"!
Sau đó, liên tiếp các năm 1031, 1033, 1035, 1037, 1039... hết
châu Hoan (Nghệ Tĩnh) lại châu Ái (Thanh Hóa), hết Lâm Tây (Sơn La - Lai Châu)
lại Quảng Nguyên (Cao Bằng), những miền biên cương xa xôi của đất nước đều để lại
bóng ngọn cờ và vó ngựa viễn chinh tiễu phạt của vua Lý Thái Tông giữ vững
cương thổ vương quốc.
Cuộc chinh phạt lớn nhất trong đời cầm quân của vị quân chủ danh
tướng là cuộc hành quân đánh Chiêm Thành, Tháng giêng âm lịch năm 1044, Vua
thân chinh chỉ huy hàng trăm chiến thuyền, hàng vạn tinh binh xuất phát từ
thành Thăng Long và mãi đến tháng chín mới ca khúc khải hoàn ca trở về, sau khi
tấn công vào tận kinh đô nước Chiêm Thành, giết và bắt tù binh hàng mấy vạn người,
giết quốc vương Sạ Đẩu (Jaya Sinhavarman II), thu chiến lợi phẩm vô số của cải,
cung tần mỹ nữ, voi trận ngựa chiến.
Lý Thái Tông Hoàng đế trở thành vị vua đầu tiên của triều Lý,
trước vua Lý Thánh Tông, năm 1069, là vị vua thứ hai trong lịch sử Đại Cồ Việt,
sau vua Lê Đại Hành, ông ngoại của vua năm 982, thân chinh đánh bại và chiếm
kinh đô nước láng giềng thù địch Chiêm Thành!
Tuy nhiên, Lý Thái Tông không chỉ là một vị vua giỏi chinh
chiến. Ông còn là một quân vương đặc biệt tài giỏi về quản lý hành chính, chính
trị đối nội và đối ngoai, có rất nhiều kinh nghiệm và thành công trong việc trị
vị đất nước, quản trị thần dân, , xây dựng và phát triển vương triều nhà Lý.
Kinh đô Thăng Long, trung tâm của Văn hóa, Khoa học và Nghệ
thuật trong 27 năm trị vì của vua đã kết thúc hoàn chỉnh xây dựng nền tảng của
một quốc gia độc lập. Khởi đầu từ phụ
hoàng Lý Thái Tổ đến đời con Vua, “Lý gia đệ tam đế, Vua Lý Thánh Tông (Lý Nhật
Tôn)"phát triển đến thời kỳ đỉnh cao huy hoàng.
Hoàng thái tử Lý Phật Mã giành được ngai vàng, kế vị Vua Lý
Thái Tổ năm 1028, nhờ thành công trong cuộc “phản đảo chính” với sự phò giúp của
các vị cận thần, dẫn đầu là Khai Quốc Vương Lý Nhân Nghĩa và danh tướng Lê Phụng Hiểu, mạnh
mẽ đập tan cuộc “đảo chính cung đình", do ba vương hầu là chú Dực Thánh
Vương và hai em ruột Đông Chinh Vương, Võ Đức Vương khởi loạn tranh ngôi (sử cũ
gọi là “Loạn Tam Vương”).
Từ những bài học xương máu cầm quân và trị nhậm, để ngồi vững
27 năm trên ngôi báu, Vua đã có cả một hệ thống những hành động củng cố các mối
quan hệ Quân – Thần, Vua – Tôi và Trị vì đất nước. Sử sách đời xưa ghi rõ, Vua
rất lưu tâm và có nhiều thành công, trong các phương cách giải quyết mối quan hệ
gắn bó mật thiết trong các sứ mệnh chủ yếu của một bậc quân chủ thời xưa là: củng
cố ngai vàng bằng các kế hoạch củng cố sự bền vững của vương triều; củng cố an
ninh và sự thịnh trị của quốc gia để củng cố vương triều; đảm bảo an ninh và thống
nhất đất nước bằng sức mạnh quân sự, kết hợp những biện pháp quản lý hành chính
với các hoạt động chính trị; xây dựng, mở mang mọi mặt đời sống kinh tế, văn
hóa của đất nước làm cơ sở cho tất cả các sứ mệnh.
Trong tất cả những sứ mệnh của quân vương, Lý Thái Tông đã thực
hiện nhiều cải cách theo tinh thần kế thừa vua cha Thái Tổ. Nhưng cũng có rất
nhiều chính sách và hành động là sự sáng tạo của chính đức ông. Lý Thái Tổ chỉ gả
công chúa cho công thần, vừa để gắn kết và khen thưởng, vừa để ràng buộc. Nhưng
vừa lên ngôi năm trước, thì năm sau (1029) Lý Thái Tông đã gả công chúa Bình
Dương cho châu mục châu Lạng (Lạng Sơn) là Thân Thiện Thái. Đến năm 1033, lại gả
hai công chúa Kim Thành và Trường Ninh cho hai châu mục châu Phong (Phú Thọ) và
châu Thượng Oai (Hà Giang) là Lê Tông Thuận và Hà Thiệu Lãm, những người là thủ
lĩnh các tộc người thiểu số miền biên viễn.
Động thái của vua Lý Thái Tông, vừa thành hệ thống, vừa có
hiệu quả và ý nghĩa lớn, trong những nỗ lực chống lại sự lôi kéo, quấy phá, lấn
chiếm biên cương của nhà Tống ở phương Bắc, đồng thời củng cố, giữ vững an ninh
và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Việc “ban Hình thư” vào năm 1042, tạo pháp chế cho nền hành
chính đất nước và vương triều, là bộ Hình Luật lần đầu tiên, sáng tạo và cống
hiến của Vua Lý Thái Tông. Trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư bình luận: “Trước
kia, việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp, câu nệ luật
văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí có người bị oan uổng quá đáng. Vua (Lý
Thái Tông) lấy làm thương xót, sai Trung thư san định luật lệnh, châm chước cho
thích dụng với thời thế, chia ra môn loại, biên thành điều khoản, làm thành
sách “Hình thư” của triều đại, để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong, xuống
chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây, phép xử án được bằng thẳng, rõ ràng,
cho nên mới đổi niên hiệu là Minh Đạo, và đúc tiền Minh Đạo” (Kỷ nhà Lý).
Những sáng tạo và chủ động một cách độc đáo, trong việc
khích lệ nền kinh tế phát triển, cũng thường xuyên thấy ở và qua những hành động
rất năng động, sáng tạo, mang phong cách và tinh thần dân tộc mạnh mẽ của Lý
Thái Tông. Ông là vị vua đầu tiên của triều Lý rời kinh thành, về nông thôn để
đi xem gặt (lúa) và “cầy (ruộng) tịch điền”. Các năm 1032, 1038, và 1042, ông
đã có ba lần về châu thổ Bắc Bộ, trong đó có tỉnh Thái Bình ngày nay, tự cầm cầy
cầy ruộng. Lặp lại hành động của vua Đại Hành nhà Tiền Lê mấy chục năm trước,
nhưng khác với ông ngoại Lê Hoàn - dùng hành vi biểu tượng (cho chôn lọ vàng, lọ
bạc xuống ruộng, chờ khi vua cầy, thì báu vật bật lên) để quảng bá cho vai trò
của nhà vua và nghề nông. Vua Lý Thái Tông đã dùng ngôn từ thể hiện ý nghĩa của
lễ “vua đi cày ruộng”, khi trực tiếp trả lời can gián của các bề tôi, nhưng
chính xác một cách giản dị, đến mức phác thực: “Trẫm không tự cày thì lấy gì
làm xôi cúng, lại lấy gì cho thiên hạ noi theo?”...
Ông cũng còn có đến ba lần vào các năm 1032, 1041 và 1044 đi
Lạng Sơn, Kha Lãm (?) để bắt voi, trong đó, lần thứ ba, cụ thể và đặc biệt nhất
như sử cũ chép lại: “Vua sai đặt cũi lớn ở Dâm Đàm (Hồ Tây - Hà Nội ngày nay, lấy
voi thuần của Chiêm Thành làm mồi nhử voi rừng vào trong cũi, vua thân đến bắt”!
Việc “làm kinh tế” có ý nghĩa nhất của ông - được sử thần
Ngô Sĩ Liên bình rằng: “Việc làm này của vua, trong cái tốt, lại còn cái tốt nữa”
- chính là việc năm 1040: “Tháng hai, vua đã dạy cung nữ dệt được gấm vóc -
tháng ấy, xuống chiếu phát hết gấm vóc của nước Tống ở trong kho ra, may áo ban
cho các quan - từ ngũ phẩm trở lên thì áo bào bằng gấm, từ cửu phẩm trở lên thì
áo bào bằng vóc - để tỏ ra là vua không dùng gấm vóc của nước Tống nữa!”.
Ở việc “làm văn hóa”, Lý Thái Tông càng có nhiều động thái đặc
sắc, trong công cuộc vừa “văn hóa” triều đình của mình, vừa hoàn thiện bước triển
mở nền văn minh Đại Việt - văn hóa Thăng Long cho đất nước.
“Chiến lược phục hưng văn hóa” - do phụ hoàng Thái Tổ của
ông đề xướng - đã được ông tiếp tục đẩy mạnh, đặc biệt với công tích khai sinh
lễ hội (“Hội thề”) đền Đồng Cổ, từ ngay năm đầu nắm quyền điều hành đất nước (Mậu
Thìn, 1028, niên hiệu Thiên Thành thứ nhất) với hàng loạt ý nghĩa và tác động của
sự thể “trong cái tốt, lại còn cái tốt nữa”: rước thần Trống Đồng (từ thời đại
Hùng Vương - văn hóa Đông Sơn) về ngự ở tân đô Thăng Long, vừa tăng cường linh
khí của tổ tiên cội nguồn dân tộc cho kinh thành, vừa tạo hạt nhân tín ngưỡng
thiêng liêng và độc đáo cho một phong tục mới, để ràng buộc toàn bộ nhân sự triều
chính vào và bằng những nghi thức trọng đại mà hạt nhân là lời thề độc: “Làm
con bất hiếu, làm tôi bất trung, thần minh chu diệt" ở ngôi đền Đồng Cổ (đến
nay vẫn còn ở phường Bưởi, quận Tây Hồ - Hà Nội) trước sự chứng giám của thần
linh Trống Đồng, “hàng năm, lấy làm lệ thường (đầu tiên là vào ngày 25 tháng 3,
sau chuyển sang mồng 4 tháng 4) quan quân dân chúng kinh kỳ đông đủ và thành
kính dự lễ, như ngày hội lớn chốn kinh đô!”
Phật giáo và Phật học tất nhiên vẫn càng được con người vốn
mang tên là “con ngựa của Đức Phật” - nay đã trở thành hoàng đế - sùng mộ, khuếch
trương. Nhưng điều đặc sắc ở đây, chính là trong khi xây dựng hệ tư tưởng làm hạt
nhân cho văn minh - văn hóa đương thời, vua Lý Thái Tông không chỉ sử dụng đạo
Phật, mà còn là người đầu tiên đã thực hiện thành công chủ trương “Tam giáo đồng
tôn”, khi lấy áo ngự ban cho đạo sĩ Trần Tuệ Long ở quán Nam Đế, để cho nhân vật
của Đạo giáo này, ngay trong đêm được thưởng áo, đã có động tác cổ vũ cho ngôi
vua thật lợi hại: hô hoán khắp nơi nói rằng chiếc áo của đấng “chân mệnh thiên
tử” đã phát sáng, và hơn thế nữa, mang theo ảo ảnh rồng vàng! Còn đối với Nho học
và nho sĩ, Lý Thái Tông là nhà vua đầu tiên của triều Lý đi đâu cũng luôn có các
“Nho thần” (bề tôi theo Nho học) đi cùng để được phụng sự: “Vua ngự đến chùa cổ
Tùng Sơn ở châu Vũ Ninh, thấy dấu người vắng vẻ, nền móng nứt hở, trong chùa có
cái cột đá lệch nghiêng sắp đổ. Vua thở than, muốn sai sửa chữa nhưng chưa kịp
nói gì thì cột đá bỗng tự đứng thẳng lại. Vua lấy làm lạ, sai nho thần làm bài
phú để nêu rõ việc kinh dị!” (Đại Việt sử ký toàn thư, năm Quý Mùi, 1043)...
Những việc “sai làm thơ phú” tương tự như thế này, luôn được
Lý Thái Tông thi hành (kể cả trong những dịp như - vào tháng chín năm 1035 -
khi khánh thành chiếc cầu Thái Hòa bắc qua sông Tô Lịch, “vua ngự đến xem
(cũng) sai các quan hầu làm thơ”) chính là một cách để nhà vua cổ động và xây dựng
nền “thơ văn Lý Trần”, với những hạt ngọc văn chương mà vẫn được truyền tụng đến
ngày nay
Kết hợp cùng Phật - Lão - Nho là chủ trương lớn nữa để “xây
dựng nền tảng văn hóa”, phát triển tín ngưỡng thần linh bản địa, cổ truyền. Ở
lĩnh vực này, tương tự như Vua Lý Thái Tổ, thu phục được thần Lý Phục Man thời
Tiền Lý, vị thần vốn chính là quan Thái úy Phạm Cự Lạng thời Tiền Lê, cũng được
Lý Thái Tông tìm thấy trong mộng, và phong thánh - “Hoàng Thánh đại vương” chuyển
sang phò giúp lo việc xử kiện và tù ngục!
Qua những việc tìm kiếm và vận dụng những giá trị văn hóa
quá khứ trong lịch sử, và trong dân gian (như chuyện nhà vua nhiều năm liền, ngự
ra điện Hàm Quang trên bờ sông Hồng, dự xem lễ hội dân gian bơi trải cổ truyền
mùa thu) cho thấy, tính dân tộc của nền văn hóa Thăng Long được vua Lý Thái
Tông vun đắp tích cực đê phát triển bền vững.
Xây dựng những công trình vật thể đặc sắc cho nền văn hóa
Thăng Long, lịch sử cũng cho thấy chính Lý Thái Tông là người đã có những đóng
góp to lớn. Ngôi chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) với kiến trúc độc đáo hình tòa
sen đặt trên cột trụ đá - cho tới nay vẫn là một hình ảnh tiêu biểu của kiến
trúc và văn hóa dân tộc thời Lý - ở cửa Tây thành Thăng Long, chính là một công
trình của Lý Thái Tông.
Nhưng, lịch sử quy hoạch và kiến trúc thành ở kinh đô Thăng
Long còn ghi công đầu cho Lý Thái Tông ở hệ thống công trình văn hóa vật thể
còn quan trọng hơn nữa. Ấy là vào năm 1029 - tôn tạo khu hạt nhân trung tâm
kinh thành, với 6 điện (Tuyên Đức, Diên Phúc, Văn Minh, Quảng Vũ, Phụng Thiên,
Trường Xuân), 4 lầu gác (trong đó có 2 lầu chuông để dân sử dụng vào việc báo
hiệu khiếu kiện) và 2 lầu (Chính Dương để trông coi tính toán giờ khắc, gác
Long Đồ để vua du ngoạn), thềm (sân) rồng Long Trì (có 4 dãy hành lang bao
quanh) để tụ họp quan quân, tất cả quây quần quanh tòa chính điện Thiên An, dựng
lại - nguy nga đồ sộ - trên nền tòa chính điện Càn Nguyên xây từ thời Lý Thái Tổ.
Tòa chính điện này vừa bị phá hủy trong vụ “Loạn Tam Vương”
tháng 3 năm trước (1029), khi nổ ra giao tranh dữ dội giữa đám cận thần cận vệ
của Lý Thái Tông lúc ấy vẫn đang còn là hoàng thái tử Phật Mã, vừa được rước từ
Đông cung Long Đức bên ngoài hoàng thành vào nơi chính điện này, để sửa soạn
lên ngôi, kế nghiệp vua cha mới băng hà - cùng lực lượng tranh giành ngôi báu của
các chú và em thái tử Ngựa Phật!
Tòa đại điện Càn Nguyên, tuy chỉ còn lại nền móng, sau khi
đã giúp Lý Phật Mã cố thủ, chống bạo loạn thành công, nhưng nay (1029) lại vẫn
thấy được rồng vàng hiển hiện, khiến Lý Thái Tông - vừa lên ngôi đã suy nghĩ:
“Có lẽ đó là phúc trạch, đức lớn hưng thịnh, hội tụ trời đất chăng?”. Do đấy mới
đổi xây thành tòa chính điện Thiên An, trung tâm triều chính của triều đại nhà
Lý. Điều quan trọng hơn cả, toàn bộ các công trình phủ điện, cung, lầu son, gác
tía được tôn tạo kỳ vĩ này được bao bọc bằng một tòa thành, “rút kinh nghiệm” về
sự cần thiết phải bảo vệ đấng chí tôn cẩn mật và đáng tin cậy sau vụ “Loạn Tam
Vương.”
Khi xây dựng Cung Càn Nguyên, vua Lý Thái Tông cho “đắp bên
ngoài một bức tường thành bao quanh, gọi là Long Thành”... Tòa “Thành Rồng”
(Long Thành) này của Lý Thái Tông khi đến đời Trần, được gọi là “Thành Rồng Phượng”
(Long Phượng thành), đến thời Lê được gọi là Cấm Thành, hạt nhân đầu não của đế
đô kinh kỳ Thăng Long với 3 vòng tường thành lồng nhau, tạo nên 3 khu vực của
đô thị Thăng Long bao gồm: Nhân dân và giới kinh thương ở phần “kinh thành”
ngoài cùng; “hoàng thành” dành cho Vương tôn quý tộc và quan lại khu vực giữa;
bên trong là “cấm thành” nơi ngài ngự và triều chính!
Nền văn minh Đại Việt, có trung tâm chính trị, văn hóa và
quyền lực hành chính là kinh đô Thăng Long với quy hoạch và kiến trúc “tam
trùng thành quách” (ba vòng thành lồng nhau), chính là bắt đầu từ Lý Thái Tông!
Ở chính giữa công trình đồ sộ “tam trùng thành quách”, tại
tòa điện cũng do chính nhà vua ra lệnh xây dựng từ năm đầu lên ngôi, đặt tên gọi
là “Trường Xuân”, ngày mồng 1 tháng 10 Âm lịch năm Giáp Ngọ (1054), sau 27 năm
trị vì với nhiều kỳ tích, Lý Thái Tông Hoàng đế băng hà, khi sử quan chỉ mới
tính đếm cho ông được 55 tuổi. Nhưng dù dương thọ tương đối ngắn, vua Lý Thái
Tông vẫn được tôn vinh trong đoạn mở đầu chính sử Đại Việt sử ký toàn thư chép
về đức ngài: “Là người trầm mặc, cơ trí, biết trước mọi việc, giống như Hán
Quang Vũ đánh đâu được đấy, công tích sánh với Đường Thái Tông.” Đồng thời sử
gia Ngô Sĩ Liên cũng bình luận: “Là người nhân triết thông tuệ, có đại lược,
văn võ lục nghệ không nghề gì không tinh tường. Nhờ có tài đức ấy, nên có thể
làm được mọi việc”...
Theo Doanh nhân Thăng
Long - Hà Nội
Nguồn: Người Hà Nội