• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
Văn hóaGiá trị lịch sử
  • UKEnglish

Giá trị lịch sử

Chùa cổ Bối Khê, nơi lưu giữ huyền thoại đánh giặc giữ nước và dấu tích tôn giáo Việt Nam

Bối Khê là một trong những ngôi chùa cổ nhất ở Bắc Bộ, với niên đại 600 năm, lưu giữ nhiều nét độc đáo. Tương truyền, chùa được xây dựng từ năm 1338 dưới thời Trần. Chùa thờ Phật, Tam Tòa Thánh Mẫu, thờ Đức thánh Bối Nguyễn Đình An – người có công đánh giặc phương bắc, và cũng lưu giữ nhiều dấu tích tôn giáo của phái Trúc Lâm, Đạo giáo, Khổng giáo.

Chùa Bối Khê có tên chữ là Đại Bi tự, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, là một trong những ngôi chùa gỗ cổ nhất Việt Nam với niên đại 600 năm tuổi. Ngày 20/4/1979, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin đã công nhận chùa Bối Khê là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia đặc biệt.

Chùa Bối Khê

Theo sử sách thế đất của Bối Khê có đầy đủ cả Tứ linh và Ngũ xà, trên những phiến và dải đất cao mang dáng hình những con vật (Long, Ly, Quy, Phượng, Xà). Thời nhị vua Hai Bà Trưng khởi nghĩa năm 40, đây gọi là “Trầm Bối Trang” đã có làng mạc đông vui và nhị vua Hai Bà Trưng cùng đại quân qua đây lấy thêm lương thực và bổ sung thêm quân.

Chỗ nhị vua Hai Bà nghỉ lại, chỗ đóng quân cùng với gò đống, cánh đồng của làng có các nhiều tên khác nhau từ đây như: Vườn Đào, gò Đống Hai, xứ Đồng Văn, Màn Đen, Man Vôi, Man Xim, Man Cuốc và Cánh Đồng Cái.

Ở vùng Thanh Oai từ nhiều đời nay đã có câu truyền ngôn “Đỗ Đông Giang Khai Thanh Oai sinh Thánh”. Sông Đỗ Đông nối sông Đáy với Sông Nhuệ, có đoạn chảy qua Bối Khê đã cạn Thành Dộc, ở thế kỷ 14 còn chảy mạnh.

Chùa Bối Khê là một ngôi chùa đặc trưng cho dạng thức "tiền Phật, hậu Thánh". Chùa thờ Phật ở phía trước. Tuy nhiên các pho tượng được văn bia mô tả trước thời Nguyễn đều không còn, chỉ trừ hai pho tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay và Bà Hậu (thời Mạc) ở vị trí tôn chủ của Thượng điện. Điều này để hiện tính Mật tông và Tịnh độ tông đã lấn lướt tính Thiền tông.

Chùa Bối Khê là một ví dụ điển hình cho sự hòa quyện giữa Phật giáo và Đạo giáo. Chùa thờ Đức Thánh Bối ở phía sau. Chùa Bối Khê có một Thánh điện với nhiều tượng thờ nhất trong số các chùa "tiền Phật hậu Thánh" hiện biết. Điều này thể hiện rõ nét tính chất hòa nhập tôn giáo ở ngôi chùa đồng bằng Bắc Bộ.

Đức Thánh Bối là nhân vật lịch sử - tôn giáo, tạo nên mối quan hệ đặc biệt giữa chùa Bối Khê và chùa Trăm Gian đồng thời là sự liên kết giữa hai làng, hai vùng đất (Bối Khê - Tiên Lữ/Tứ Bích) trên phương diện tôn giáo. Hai ngôi chùa đều thờ chung Thánh Nguyễn Bình An. Cũng do thờ chung Thánh nên từ xưa, hai làng đã có tục "kết chạ" (tức là kết nghĩa anh em) duy trì cho tới ngày nay.

Thánh Bối Khê là người có thực, đó là vị thiền sư đắc đạo sống giữa thời Trần. Ngài thuộc dòng họ Nguyễn sinh năm Tân tỵ (1281) đời vua Trần Nhân Tông, năm 7 tuổi ngài mồ côi cả cha và mẹ, phải ở nhà cô để chăn trâu cắt cỏ.

Sớm có lòng từ bi hướng Phật. Ngài thường lui tới chùa làng nghe giảng Kinh vào mùa hanh khô, thường rủ bạn bè tát cả vũng nước đem tôm cá bắt được thả ra sông hay lấy đất nặn chùa, nặn tượng và đem cơm nắm oản cũng lễ.

Vốn thông minh tuấn tú và thông tuệ khác thường, khi cậu của Ngài mời thầy về dạy cho con thì Ngài thường đứng ngoài cửa nghe, ông thầy thấy ham học đem lòng yêu mến nên đã dạy thêm cho về ban đêm.

Sau Ngài thành người tài cao học rộng và có tấm lòng từ bi vô lượng. Năm 15 tuổi Ngài xuất gia lấy hiệu là Đức Minh Tự nghĩa là Bình An đến tu ở chùa Trang An tục gọi là chùa Sở, cạnh núi Đồng Lanh, xã Tiên Lữ Hoài Đức, làm môn đệ của Thiền Sư Phạm Cốc nổi tiếng bấy giờ.

Năm 1205, Ngài vào chùa Hương Tích thỉnh giáo Long Vương Châu Nhân, học được phép Đảo Vũ. Năm Hưng Long thứ 13 (1307 đại hạn, Vua Trần Anh Tông triệu ngài về kinh Thăng Long làm lễ cầu đảo được trận mưa suốt 3 ngày, do đó, nhà vua đã tặng ngài bốn chữ “Đức Minh Châu Nhân”.

Khi đang ở kinh đô được tin sư trưởng quy tiên, Ngài về chịu tang, đến bến đò Đông Dương (Thanh Oai) thì trời tối, mọi người hốt hoảng vì gần đấy có tiếng hổ gầm, thấy vậy Ngài đọc thần chú, liền có chiếc thuyền hiện ra đưa mọi người qua sông.

Sau 3 năm chịu tang thầy, Ngài về thăm quê (Bối Khê), đến trước mộ cha mẹ khấn vái, tự nhiên trời tối sầm sáu khắc rồi có nấm hình chữ nhật nổi lên, các thửa ruộng đều dãn ra nên không nhà nào mất ruộng. Trở lại Tràng An thấy chùa hư nát, Ngài cho xây dựng lại.

Ngày khởi công, thợ và nhân dân các nơi đến quá đông, gần trưa ngài lấy gạo cho vào nồi đất và bảo mọi người nấu cơm. Cơm đang sôi Ngài nói với mọi người rằng chưa có thức ăn nên thấy sẽ về Bối Khê xin cà và muối, nói rồi Ngài nhún chân không thấy đâu nữa, khi cơm cạn Ngài đã quay về đến nơi, ngài đi mây về gió, các dấu tích vẫn còn ở làng Tiên Lữ, Đồng Hoàng Thượng Thanh, Bối Khê, khi qua Bình Đà, một quả cà đã rơi xuống liền tạo thành giếng, ngài đem cà và muối bầy đầy đủ một trăm đĩa, xới đủ một trăm mâm, một trăm mâm xới hết lại đầy.

Đến năm 95 tuổi (1375) ngài cho làm một khám son để ở mé tả điện trong chùa, mời dân trong vùng và học trò đến dặn rằng “nay thấy số trời đã hết, thầy vào khám ngồi đủ một trăm ngày, thơm thì thờ, tanh hôi thì cho an táng ở sau chùa.

Nhưng mới được 3 tuần thì có hương thơm và hào quang toả ra, mọi người vui mừng đem hương cúng tế và báo cho các làng. Sau đó Bối Khê cùng mười làng xung quanh mang kiệu đến rước bát Phủ Hương vê thờ và nhận anh em kết nghĩa với làng Tiên Lữ (sau này ngày hội chính ở Tiên Lữ là mùng 4 tháng giêng, ở Bối Khê là ngày 12 tháng giêng).

Sự tích Đức Thánh Bối nhiều chi tiết giống sự tích của hai Thánh Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không đời lý 1225, có phép khinh công đi mây về gió. Sau Đức Thánh Bối đời đầu Lê, vùng đất Bối Khê còn có hai nhân vật nổi tiếng được giới nho học đặc biệt ngưỡng mộ và ghi vào sử sách là hai cha con cụ Nguyễn Thi Trung, Nguyễn Trực (Lưỡng quốc Trạng Nguyên) Sau hai cha con cụ Thi Trung vào thời Lê, Bối Khê còn ba vị đỗ đại khoa là Nguyễn Quỳnh, Hoàng Bá Dương, Lê Huy Trâm.

Thời Lê Trung Hưng, ở Bối Khê còn có hai quận Công Võ là Lê Đình Thọ và Lê Tiến Quý. Năm 1945 đến 1954 Bối Khê được xứng đáng là làng tiêu tiểu trong kháng chiến chống Pháp, có 3km hầm địa đạo, có liệt sĩ Trần Duy Phương và nhiều người con khác của làng đã đóng góp xương máu của mình cho sự nghiệp giải phóng đất nước.

Chùa Bối Khê là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia đặc biệt. Người thăm quan vào chùa qua hệ thống cổng ngũ môn và cầu là tới tam quan gồm ba gian bằng gỗ theo kiểu hai tầng tám mái. Phía trên tam quan là gác chuông.

Tên chữ của chùa là Đại Bi tự (chữ Hán:大悲寺), chữ bi nguyên nghĩa là "buồn khổ", gắn liền với cụm "đại từ đại bi" hay "từ bi" là ngôn ngữ Phật giáo chỉ lòng thương xót con người vô hạn của Phật. Chữ "Đại Bi" kết hợp với tượng thờ tại chùa cho thấy nhiều khả năng ngôi chùa vào thời Lý chỉ giành riêng thờ Quan Âm nghìn mắt nghìn tay của Mật tông. Tuy nhiên chùa thường được gọi là chùa Bối Khê do chùa dựng trên đất làng Bối Khê. Sau Cách mạng tháng Tám, hai làng Bối Khê và Phúc Khê hợp nhất lại thành một thôn mới tên là Song Khê.

Lịch sử

Theo nhiều nhà nghiên cứu (Trần Lâm Biền, Chu Quang Trứ, Hà Văn Tấn) phân tích, so sánh phong cách nghệ thuật trang trí, kiến trúc ở nhiều chùa thì Bối Khê được cho là xây dựng vào khoảng năm 1338, thời Trần. Niên đại này được công nhận rộng rãi trong giới nghiên cứu. Tuy nhiên có giả thiết chùa được khởi dựng từ thời Lý, căn cứ trên khối đá chạm phong cách thời Lý được phát hiện năm 1999 và các văn bia niên hiệu Thái Hòa (1454), Hồng Thuận (1515) đặt tại chùa, văn bia niên hiệu Gia Long (1805) hiện ở Quán Thánh (xã Tiên Phương, Chương Mỹ). Các văn bia này có nhiều đoạn ghi khá rõ khả năng chùa được lập từ thời Lý và mang tên Đại Bi.

Ngôi chùa thời Lý có lẽ đã bị hủy hoại và được trùng tu lớn vào thời Trần. Nhiều kiến trúc và mảng chạm khắc (rồng ở bẩy, chim Garuda ở góc đao) cho thấy niên đại đầu thời Trần. Một điểm đặc biệt trong việc xác định niên đại ở chùa Bối Khê là các nhà nghiên cứu đã tiến hành xét nghiệm đồng vị C14, cho biết niên đại tuyệt đối của một cấu kiện kiến trúc (đấu thuyền kê thượng lương) là 640 ± 50 năm cách ngày nay.

Như vậy có thể khẳng định chùa có niên đại ít nhất là từ thời Trần (thế kỉ XIV). Ngoài ra, các văn bia, chi tiết kiến trúc, chạm khắc trang trí và đồ thờ tự trong chùa (một số mang minh văn ghi niên đại tuyệt đối) cho thấy việc trùng tu tôn tạo được diễn ra liên tục xuyên suốt các thời kỳ Lê Sơ, Mạc, Lê Trung Hưng và thời Nguyễn. Việc trùng tu, mở rộng chùa có thể được thống kê lại dựa trên văn bia và cổ vật.

Tam quan được dựng vào năm 1603 thời Lê Trung hưng. Hạng mục kiến trúc này vừa được sửa chữa vào năm 2006. Kiến trúc chính của chùa Bối Khê được bố cục theo kiểu “tiền Phật, hậu Thánh”, trên diện tích 5.000m2. Việc thờ Phật được bố trí ở tòa tiền đường và tiền bái. Tiếp đó đến tòa thiệu hương và thượng điện là nơi thờ thánh. Nhìn tổng thể, ngôi chùa có hình “nội công ngoại quốc” bởi hai bên có hai dãy hành lang.

Sang đầu thế kỉ XIX, chùa Bối Khê đã bị xuống cấp nặng nề. Năm 2004, Bộ Văn hóa và Thông tin, Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây phê duyệt "Dự án đầu tư bảo tồn, tu bổ, tôn tạo và phục hồi di tích chùa Bối Khê" do đơn vị tư vấn thiết kế là Văn phòng tư vấn và chuyển giao công nghệ xây dựng (Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội) với tổng dự toán đầu tư hơn 13 tỷ đồng. Sở Văn hóa - Thông tin Hà Tây đã tổ chức khởi công bảo tồn, tu bổ lại chùa.

Theo đó, hạng mục nhà Tổ, nhà Mẫu đã được dịch chuyển theo hướng Bắc; đồng thời di dời toàn bộ diện tích và cơ sở vật chất Trường Tiểu học Tam Hưng nằm ở phía trước bên phải Ngũ Không Môn để mở rộng khuôn viên và kè giếng hai bên sân trong ngôi chùa.

Kiến trúc

Tàu đao lá mái ở Điện Thánh

Theo trục Tây - Đông (từ ngoài vào), chùa Bối Khê có các kiến trúc lần lượt gồm: năm tháp mộ, đền Đức Ông, sân ngoài, đường lát gạch, Ngũ Không Môn (gồm năm cổng), cầu gạch qua sông Đỗ Động, tam quan, chùa Phật (tiền đường, thiêu hương, thượng điện, hai hành lang), cung Thánh (đại bái, ống muống, hậu cung). Từ chùa Phật đến cung Thánh được bao bằng vòng tường xây tạo thành dạng kiến trúc nội (nhị) công ngoại quốc. Ngoài vòng tường chữ "quốc" (囯) còn có một số kiến trúc khác ở phía Nam và ao, giếng, vườn cây.

Chùa Bối Khê là một điển hình của dạng chùa cụm đồng bằng với nhiều lớp kiến trúc gỗ kéo dài theo trục dọc, mở rộng theo tuyến ngang. Đây là một nét mới của kiến trúc Phật giáo Việt Nam, bắt đầu xuất hiện từ thời Trần.

Tất cả các công trình kiến trúc tại chùa đều mang đặc trưng kiến trúc Việt ngoại trừ công trình cuối cùng là Điện Thánh xuất hiện đấu củng. Trong kết cấu kiến trúc chùa Bối Khê sử dụng rất nhiều đấu kê trên bộ khung nhà nhưng về mặt kết cấu hoàn toàn khác với đấu củng ở tòa Điện Thánh.

Ngũ Không Môn

Ngũ Không Môn và cầu dẫn đến Tam quan được xây bằng gạch, trang trí với phong cách Nguyễn muộn (cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX) với các đề tài tứ linh, hoa trái, voi ngựa đắp bằng vữa và vẽ lên tường. Niên đại tuyệt đối của Ngũ Môn là 1899. Đây chính là biểu hiện cho tính chất đền thờ của cả quần thể chùa, khẳng định tính hỗn hợp của việc thờ cúng tiền Phật hậu Thánh.

 

  Ngũ môn chùa Bối Khê.

Chùa được xây trên một khu đất khá rộng rãi, với phần cổng tách biệt bên ngoài, qua cây cầu gạch và một con đường rồi mới vào đến chùa. Cổng chùa cũng là loại năm cổng- ngũ quan (ngũ môn), khác với cổng tam quan thường thấy, phía trên có gác mái và có lối lên. Cây cầu bắc qua hào nước nhỏ, tương truyền là một phần của sông Đỗ Động.

Tam quan

Tam quan là sản phẩm của nhiều thời kỳ trùng tu khác nhau, song còn lại rõ rệt là thời Nguyễn. Tam quan có hai tầng, tám mái, một gian - hai chái. Chức năng vừa làm cửa ra vào chùa Phật vừa làm Gác chuông. Dấu vết tam quan thời Trần, thời Lê Trung Hưng thể hiện ở chân tảng hoa sen và đầu rồng trên đầu dư tầng hai.

 Gác chuông chùa.

Được xây dựng đầu thế kỷ 14, chùa trải qua tám đợt trùng tu lớn vào các đời Lê Sơ, Mạc, Lê Trung Hưng và Nguyễn. Hiện nay, kiến trúc và phần nhiều các mảng chạm của chùa mang dáng dấp thời Nguyễn. Có thể nói, chùa hội tụ rất nhiều những nét kiến trúc, mỹ thuật tiêu biểu của nhiều thời kỳ, một phần do yếu tố trùng tu có giữ lại những vật liệu của thời kỳ trước để tận dụng.

Chùa Phật

Phần chùa Phật gồm Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện, hai hành lang. Tiền đường gồm một tòa bảy gian: một giữa, hai bên, hai hồi, hai chái. Kết cấu bộ vì theo kiểu "chồng rường - giá chiêng", ngoài ra còn kết cấu kẻ góc cột trốn để nối với hành lang.

Gạch bó nền tòa nhà này rõ rệt phong cách Mạc với rồng, phượng, sư tử bố cục trong các khung hình chữ nhật và tròn. Thiêu hương có cùng một cao độ nền với tiền đường, kiến trúc tương tự. Thiêu hương và Tiền đường đều có bộ khung niên đại thời Nguyễn.

Cận cảnh bộ đấu củng và chạm khắc ở Hậu cung

Thượng điện là kiến trúc một gian - hai chái độc lập. Riêng Thượng điện là kiến trúc có nhiều cấu kiện mang niên đại từ thời Trần. Các cột Thượng điện lớn và thấp, bộ vì kèo có cốn hình lá đề. Đầu các bẩy chạm hình rồng thời Trần, một số đầu đao còn có cả chim thần Garuda.

 Tuy nhiên, nếu xét về tổng thể thì Thượng điện ngày nay mang đậm dấu ấn thời Mạc (bộ vì chồng rường - giá chiêng, các cấu kiện mập và kích thước lớn, đầu rồng trên đầu xà mặt trước) và cả thời Nguyễn (cột, nền, thành phần bao che, bộ mái). Các dấu vết Trần, Mạc, Nguyễn nói trên đã bị xóa sổ khi tiến hành sửa chữa lớn năm 1995.

Điện Thánh - Hậu Cung

Phần Điện Thánh gồm ba đơn nguyên kiến trúc: Đại bái, ống muống và Hậu cung theo hình chữ công (工). Điện Thánh được nối với hai hành lang của chùa Phật ở hai gian chái của tòa Đại bái, tạo thành hai chữ "công" và tổng thể "nội (nhị) công ngoại quốc".

Hậu cung điện Thánh là một tòa nhà có mặt bằng gần vuông, kích thước 5,58m × 5,55m (hai cạnh chênh nhau có thể do bộ khung xô lệch qua thời gian). Tòa Hậu Cung này là một ví dụ hiếm hoi về hình thức kiến trúc đấu củng tại Việt Nam. Tuy nhiên khách tham quan ít có dịp chiêm ngưỡng từ bên trong vì khu vực Hậu cung là nơi linh thiêng, không mở cửa rộng rãi.

Tòa nhà có kết cấu chồng diêm, tàu đao lá mái. Nhưng lá tàu ở đây có kích thước hẹp hơn các cấu trúc không có đấu củng. Ngoại trừ củng đặt trên bốn đầu cột góc, nhìn xa có thể thấy mỗi mặt mái có 3 cụm củng 3 tầng, kiểu "một đấu hai thăng" hình chữ V.

Khác với củng ở gác chuông chùa Keo (Thái Bình), củng ở đây đều là củng xuyên, vừa nhô ra đỡ tầng mái, vừa hỗ trợ hàng xà phía trong. Kẻ góc của cả mái dưới và mái trên đều gác lên các cụm đấu củng ở đầu cột quân và cột cái.

Tuy nhiên, chức năng và kết cấu của củng ở góc đao hoàn toàn khác với củng ở rìa mái. Củng ở 4 góc là củng xuyên chuyển góc, còn củng ở rìa mái là củng hai phương, một chiếc đặt ở trung tâm còn hệ thống đấu ở hai bên củng trung tâm là đấu chạm nổi trên ván. Vì vậy củng ở rìa mái chỉ là giả củng. Một đặc điểm khác của củng ở chùa Bối Khê là củng không có loan cong.

Cây sen đất

 

 Một bông hoa "sen đất" giống như hoa ở chùa Bối Khê

Trong vườn chùa Bối Khê có hai cây sen đất, hoa thường có 9 đến 10 cánh lớn trắng ngần, hương thơm ngát, trông như đóa hoa sen, nhụy xanh vàng, ra hoa từ tháng tư đến tháng sáu âm lịch, nở khoảng một tuần mới tàn. Tương truyền, người ta đã từng sang chiết đem cây hoa này trồng ở nơi khác nhưng hầu như không sống được, nên người dân Bối Khê xem như báu vật của làng. Cây hoa sen đất này chính là hình ảnh "cành sen" trong các bài ca dao, dân ca mà thường bị nhầm lẫn rằng hoa sen thì không có cành như:

Đêm qua tát nước đầu đình

Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen

hay như câu:

Lên chùa bẻ một cành sen

Ăn cơm bằng đèn đi cấy sáng trăng

Nhiều nguồn thông tin đã tùy tiện cho rằng hiện nay chỉ ở chùa Bối Khê mới có loài hoa sen quý hiếm này, khiến cho cây sen đất chùa Bối Khê trở nên nổi tiếng. Trong thực tế, đây là một loài cây phổ biến trên thế giới, không có tài liệu nào nói nó khó trồng đến mức như thế. Cây sen đất này còn gọi là "Bạch liên sen", tên khoa học là Magnolia grandiflora, thuộc chi Mộc lan. Người Trung Quốc gọi là "Hà hoa ngọc lan" (荷花玉兰), Người Nhật gọi là "Thái sơn mộc" (泰山木 – Taisanboku).

Ở Việt Nam, loài sen đất cũng được rất nhiều nhà sư chọn trồng, như trong khuôn viên chùa Quán Sứ có một cây, chùa Lý Quốc Sư cũng có một cây, nhưng cây ít được mọi người để ý tới bởi đều hiếm khi ra hoa. Trước đây, sen đất còn mọc bạt ngàn ở vùng cánh cung Đông Triều (Quảng Ninh), trên các dãy núi Yên Tử, núi Đỉnh Hương, núi Bảo Đài. Chứng tỏ loài sen đất này đã được lựa chọn để gắn liền với nhiều nơi tu hành đạo Phật và Thiền phái Trúc Lâm từ thời Lý - Trần.

Hầm và địa đạo

Phía sau khuôn viên chùa còn lưu giữ hầm kiểu mẫu thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Hầm được ông Vũ Song, Bí thư Thành ủy Hà Đông (cũ) chỉ đạo đào tháng 1 năm 1948, có ba ngách chính, thông tới điện Phật, chạy qua đền thờ Nguyễn Trực (gần chùa Bối Khê) và chạy vòng quanh làng Bối Khê.

 Hệ thống hầm là địa đạo quy mô, có tác dụng chuyển quân dưới lòng đất, là nơi phòng thủ vững chắc. Hiện nay, các hầm trong xã và các xã lân cận đều đã bị bịt chặt, duy chỉ có hầm trong chùa Bối Khê vẫn giữ được một cửa và địa đạo dài khoảng 7m.

Tại căn hầm lịch sử này, dân làng Bối Khê đã tiêu diệt tổng cộng 372 lính Pháp. Căn hầm còn gắn liền với chiến tích của nữ du kích Phạm Thị Đe, người đã nằm 7 ngày liền trong hầm không có cơm ăn, nước uống khi quân Pháp đóng trong làng. Đến ngày thứ tám quân Pháp rút, bà gắng sức lên cửa hầm và bị ngất. Hiện nay, hầm Bối Khê đã được chỉnh trang và tu sửa lại 7m địa đạo

Đáng chú ý ở tòa tiền đường là hệ thống cột bằng đá xanh. Trên các cột đá có chạm nhiều đôi câu đối ca ngợi cảnh chùa. Bên trái tiền đường có một am nhỏ thờ bà công chúa thời Mạc đã có công tu sửa chùa. Hai dãy hành lang ở hai bên được xây dựng song song, mỗi bên có bảy gian. Nơi đây thờ 18 vị La Hán.

Chùa Bối Khê còn nhiều hiện vật quý giá như có tới 10 tấm bia, trong đó bia cổ nhất là “Bối động thánh tích bi ký” có từ năm Thái Hòa thứ 11 (1453) nhưng cũng là tấm bia mới nhất vì được khắc lại năm Thành Thái thứ 7 (1895) kể lại sự tích đức Thánh Bối với nhiều tình tiết ly kỳ.

Tiếp theo là bia “Đại bi tự” dựng năm Hồng Thuận thứ 7 (1515) ngoài việc nói thêm về đức Thánh Bối còn cho biết việc tu sửa chùa ở đầu thế kỷ XVI. Hiện vật đá đặc biệt quý hiếm là chiếc bệ hoa sen khối hộp, các góc chạm chim thần, trên chạm đài sen, dưới chạm sập thờ, mặt trước có chạm rồng và nhiều loài thú, do vị đạo sỹ ở Quốc Oai cúng tiến. Ngày 20/4/1979, Bộ VHTT đã công nhận chùa Bối Khê là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia đặc biệt.

Di vật và điêu khắc

Thềm gạch với nhiều lớp văn hóa chồng lên nhau.

 Bức chạm giống hình thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh.

 Bức chạm giống hình thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh.

 Những bức chạm tươi tắn, gần như còn nguyên vẹn.

 Bức chạm long lân vô cùng tỉ mỉ và tinh xảo.

 Hình hai con nai đùa giỡn nhau bị ngã.

Bậc thềm phía trước thượng điện còn lưu giữ vết tích của gạch cả thời Mạc và thời Lê, với hoa văn và linh vật trang trí chạm nổi còn gần như nguyên vẹn. Các mảng chạm gỗ của chùa phần lớn là từ thời Nguyễn. Các mảng chạm này độc đáo ở chỗ, thay vì những mô típ quen thuộc như tùng, cúc, trúc, mai, sen, rồng, phượng, hay tiên… thì một số mảng chạm lại mô tả tích thầy trò Đường Tăng đi lấy kinh, hoặc hai con ngựa (hoặc nai) giỡn chơi với nhau ngã chổng vó… Một số mảng chạm còn xuất hiện ở cả phần mặt dưới của vì mái, nơi mà phần lớn các chùa khác thường để trơn, không chạm khắc gì.

 Trang trí hình chim thần Garuda trên bệ tượng. Ảnh: NGÔ VƯƠNG ANH.

Hệ thống đồ thờ của chùa Bối Khê có số lượng tương đối lớn, có thể chia làm hai dạng chính:

Đồ thờ nhân cách: Đồ thờ nhân cách gồm có tượng thờ và những thứ liên quan đến tượng. Tổng số tượng thờ có trong chùa là 92 pho. Có một số tượng bị mất, đã thay thế bằng tượng khác ít giá trị nghệ thuật hơn.

Tượng thờ ở Điện Phật: Tổng số có 27 tượng gỗ ở khu thờ Phật (20 pho ở Thượng điện, 4 pho ở Thiêu hương, 3 pho ở Tiền đường). Hai hành lang chạy song song có 18 tượng La Hán bằng đất.

Tượng thờ ở Điện Thánh: Tổng số 27 tượng gỗ, bố trí ở hai khu chính Đại Bái và Hậu Cung. Khu Đại bái có 13 pho đặt thành 4 cụm chia đều ở hai bên nối với hành lang. Tượng ở Hậu cung có 14 pho bằng gỗ, được chia thành 2 nhóm: một nhóm 4 pho ở hai nhang án chính giữa, nhóm kia 10 pho bố trí chia đều hai bên nhang án chính, hai gian chái, sát vách Hậu Cung.

 

 Tượng La Hán trong chùa.

Đồ thờ phi nhân cách: Bao gồm nhang án và những thứ có liên quan, văn bia và sắc phong, sập đặt kiệu thờ, 2 chậu “cây mệnh” (theo cách gọi của dân làng), Đồ thờ tự ở Bối Khê khá nhiều, có một số đồ quý bị mất. Đồ bị mất gồm có 5 chân đèn gốm men, bát hương thời thời Mạc, tất cả đều có minh văn.

Đồ thờ ở chùa Bối Khê hầu hết là di sản của thời Nguyễn. Một số đồ thờ có giá trị nghệ thuật: ban thờ đá hoa sen thời Trần, mảng đá móng bệ hoa sen chạm phong cách trang trí thời Lý, các bia đá từ Lê Sơ đến Nguyễn, hai cây hương đá.

Trong các pho tượng của chùa thì Tượng Quan Âm Nam Hải thời Mạc (hay còn gọi là Tượng Quan âm thiên thủ thiên nhãn, Quan âm nghìn mắt nghìn tay) có giá trị nghệ thuật cao nhất với bố trí nhịp điệu tay rất cân xứng và biến động. Tượng gỗ phủ sơn cao 2,53m (bệ gỗ 94 cm) đặt trên bệ đá hoa sen thời Trần. Hai bên đặt tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ thời Nguyễn, cao 1,35m.

 Tượng Quan Âm ngồi tư thế bán Kiết già, áo không tay chạy lượn biên, gặp lá sen sau lưng, phía trước phủ qua vai chảy xuống lòng đùi, gập xô nhiều lớp trên mặt bệ. Bệ đài sen bốn tầng ken nhau, khối nở đều, dưới nữa là bệ lục giác có quỷ đội đài sen. Tượng có 14 tay với 7 đôi đối xứng qua thân:

Đôi thứ nhất: ngang đầu, nâng mặt trăng - mặt trời

Đôi thứ hai: cao vừa, ngón tay bắt ấn, đóng mở nửa vời, thu vào - búng ra

Đôi thứ ba: lòng bàn tay hướng về phía trước

Đôi thứ tư: chắp trước ngực

Đôi thứ năm: đặt trên lòng

Đôi thứ sáu: đặt trên đầu gối tay ngửa, tay úp

Đôi thứ bảy: chống thẳng sau mông, các ngón khép lại và duỗi trên mặt bệ

Sắc phong của chùa còn lưu giữ khá nhiều trong đó có các đạo sắc phong vào các năm Thịnh Đức (1656), Vĩnh Thọ (1660), Cảnh Trị (1670), Dương Đức (1674), Chính Hòa (1683), Vĩnh Thịnh (1710), Vĩnh Khánh (1730), Cảnh Hưng (1740, 1763, 1767, 1783), Chiêu Thống (1787), Minh Mệnh (1821), Thiệu Trị (1844), Tự Đức (1880), Đồng Khánh (1887), Duy Tân (1909).

 Chuông cổ còn hai quả đúc năm Thiệu Trị (1844) và Duy Tân (1908).

Hậu cung thờ Đức thánh Bối.

 

 Hậu cung thờ Đức thánh Bối, với kiểu kiến trúc hai tầng tám mái, bằng gỗ, với nhiều mảng chạm tinh xảo, cầu kỳ mang họa tiết hoa sen, hoa cúc, rồng, mây…

 

Lễ hội chùa diễn ra vào ngày 12 tháng Giêng âm lịch hằng năm. Tương truyền, Đức Thánh Bối khi còn sống vẫn đi lại giữa hai làng Tiên Lữ (làng Sở) và làng Bối Khê chỉ bằng vài bước chân. Đến năm 95 tuổi, Nhà sư Nguyễn Bình An cho đóng khám gỗ. Đêm 12 rạng ngày 13 tháng Chạp vào khám ngồi và dặn đệ tử là sau một trăm ngày thì mở ra xem, nếu thấy thơm thì rút mây làm tượng thờ, mà thối thì đổ ra sông Cái.

Nhưng mới 21 ngày, dân đã hé khám xem. Thấy hào quang và hương thơm bèn kéo nhau lên chùa làm lễ. Hôm ấy là ngày mồng 4 tháng Giêng. Dân Bối Khê nghe tin cũng kéo lên, xin rước thi hài Thánh về quê Bối Khê, nhưng dân làng Sở không nghe. Cuối cùng, ngày 12 tháng Giêng, dân Bối Khê bèn xin duệ hiệu và rước bát nhang về thờ vọng. Từ đó dẫn đến việc kết chạ giữa hai làng Bối Khê - Tiên Lữ và là thành tố quan trọng của hội chùa Trăm Gian cũng như hội chùa Bối Khê.

Sự giao hảo kết chạ giữa hai làng Bối Khê và Tiên Lữ trải qua thời gian vẫn được duy trì cho đến nay. Sáng ngày mồng 4 tháng Giêng, đoàn đại biểu Bối Khê sang dự hội chùa Trăm Gian gồm 8 cụ ông và 8 cụ bà. Đoàn sang, được dân Tiên Lữ gọi là các cụ “sãi quan anh”.

Đến hội chùa Bối Khê 12 tháng Giêng, đoàn đại biểu của “tứ bích” Tiên Lữ gồm đại diện 4 thôn: Nội, Thượng, Phương Khê (xã Tiên Phương, Chương Mỹ) và thôn Thổ Ngõa (xã Tân Hòa, Quốc Oai), sang dự cũng có số người như vậy và cũng được gọi là “sãi quan anh”.

Khi đón tiếp dân anh Bối Khê, làng Tiên Lữ bình chọn trong “tứ bích” mỗi thôn 2 người: phải là người cao tuổi, có uy tín trong dân, đạo cao đức trọng, đủ tư cách để tiếp các cụ sãi quan anh.

Khi tiếp chuyện phải nói năng từ tốn, lễ độ, nhún nhường hàn huyên thân tình sau một năm xa cách. Việc đón tiếp dân anh gọi là chứa sãi. Chi phí chứa sãi được lấy từ 7 sào ruộng do làng cấp để tổ chức 2 bữa cơm (trưa ngày mồng 4, sáng ngày mồng 5) và một bữa nước (tối ngày mồng 4). Cỗ chứa sãi rất to, bày trên mâm vuông, hai tầng với đầy đủ các món chay như giò, nem, chả, xôi, chè... trưa ngày mồng 5 dân anh Bối Khê lại nhà.

Đến sáng 12 tháng Giêng, “tứ bích” lại cử đoàn sang dự hội chùa Bối Khê. Để đáp lại, dân anh Bối Khê mang pháo sang Tiên Lữ lễ thánh và tặng lan cảnh, các cụ Tiên Lữ lại mang những cây thông giống sang làm quà.

Để đón tiếp các cụ sãi quan anh Tiên Lữ, dân Bối Khê cũng chọn đủ 8 người với tiêu chí tương tự như tứ bích. Chi phí chứa sãi ở Bối Khê cũng do dân làng lo đủ để tổ chức 3 bữa cơm nước tương tự. Trưa ngày 13 tháng Giêng, dân anh trở về thì hội Bối Khê cũng đi vào hồi kết.

Trong lễ hội chùa Bối Khê có rước lễ và hội thi đốt pháo đầu xuân trong nghi lễ đánh trống thiêng. Ngoài hội, ở chùa Bối Khê còn có những nghi lễ cầu mưa được tổ chức khi trời nắng mãi không mưa.

Nguồn: Báo Nhân Dân

Ths Nguyễn Thy Ngà

Trở về đầu trang
   Chùa Bổi Khê Đại Bi tự xã Tam Hưng huyện Thanh Oai Hà Nội
0   Tổng số:

Các tin khác

  • Đình Thanh Sơn, thờ phụng Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát và Châu Lan Đại vương
  • Nghệ thuật kiến trúc đặc sắc của Đình đá Tiên Phong
  • Hà Nam: Đình Quan Phố đón nhận Bằng xếp hạng Di tích cấp quốc gia
  • Đình Quan Phố và những nét kiến trúc nghệ thuật độc đáo
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật
  • Di tích đền phủ Ninh Xá ở Nam Định nơi lưu giữ 28 đạo sắc phong
  • Đình Nghĩa Chỉ, Tiên Du, thờ phụng Phùng Hưng và hai vị thủy thần
  • Đình, nghè Mai Động, thờ phụng Đô úy Tam Trinh triều Nhị vua Hai Bà Trưng
  • Đình Tây Đằng – Bảo tàng nghệ thuật kiến trúc thế kỷ 16
  • Di tích phòng tuyến sông Như Nguyệt - Địa danh gắn với chiến thắng lịch sử chống quân Tống
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Long An phát triển du lịch qua di tích lịch sử - văn hóa

    165
  • Quảng Nam: Tây Giang hướng đến phát triển du lịch xanh

    121
  • Hải Dương: Phường rối nước Thanh Hải được công nhận là điểm du lịch

    119
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật

    113
  • Cung đường mới - động lực lớn cho phát triển du lịch hồ Ba Bể (Bắc Kạn)

    109

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2025 Trang thông tin du lịch