• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
Văn hóaGiá trị lịch sử
  • UKEnglish

Giá trị lịch sử

Đình Diềm – Nơi thờ phụng thánh Tam Giang thời vua Triệu Việt Vương

Đình làng Diềm, xã Hòa Long, huyện Yên Phong (nay thuộc thành phố Bắc Ninh), là công trình kiến trúc quy mô to lớn vào bậc nhất ở vùng Kinh Bắc được xây dựng vào năm 1692, thờ Đức thánh Tam Giang là hai anh em Trương Hống-Trương Hát.

Ca dao xưa có câu:

“Thứ nhất là đình Đông Khang
Thứ nhì đình Bảng, vẻ vang đình Diềm”.

Đình Đông Khang của làng Đông Yên, xã Đông Phong, huyện Yên Phong bị phá hủy trong kháng chiến chống Pháp, mới phục dựng những năm gần đây. Đình Đình Bảng mới được trùng tu tôn tạo vào năm 2009. Đình làng Diềm (niên đại 1692) có bức cửa võng được giới chuyên môn đánh giá là “độc nhất vô nhị” ở xứ Bắc.

 
 
 
 

Đến thăm đình, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt du khách là tòa Đại đình 4 mái, đao cong nằm chỉnh tề ngay giữa làng. Bên trong Đình, ấn tượng với một không gian thoáng rộng và 4 cột gỗ to với chu vi lên tới 2,14m.

 

Kiến trúc Đình Diềm xưa tuân thủ theo kiến trúc truyền thống của Việt Nam, trừ 4 đầu dư đỡ hai câu đầu ở gian giữa có chạm những hình rồng và mây nét mác, tất cả mọi thành phần của khung nhà đều bào trơn đóng bén, soi gờ chỉ chạy thẳng.

Nghệ thuật chạm khắc ở Đình Diềm chủ yếu tập trung nơi cửa võng và trên chiếc nhang án thờ, đây là hai di vật quý báu nhất của đình còn lưu giữ hiện nay. Toàn bộ cửa võng thiếp vàng rực rỡ không một mảng trơn trống; từng điện nhỏ đều được trang trí kỹ lưỡng nổi bật, thu hút sự chú ý của mọi người, hầu hết các đình làng đều có cửa võng, nhưng hiếm thấy bức cửa võng đẹp như cửa võng Đình Diềm.

 
 

Bức cửa võng đình Diềm có chiều cao 7m từ thượng lương xuống sát nền đình, gồm nhiều tầng, tạo ra thành nhiều lớp lang. Tầng trên cùng là một tấm ván chạy suốt chiều rộng của gian giữa, chạm thủng 4 hình con rồng bò vào phía trung tâm chầu mặt trời, bốn cô Tiên cưỡi trên lưng rồng, hai tay giang ngang trong động tác múa uyển chuyển.

Tầng thứ hai có độ cao 5,7m đến 6,5m tính từ mặt nền, phía trên có ba lớp diềm sòi chạm thủng, phần giữa chia làm ba khoang lớn, xen vào giữa bốn khoang nhỏ, có sáu cột khoang chạm lộng hình rồng.

Chính giữa mỗi cửa khám từ trong nền nhô ra đầu một đầu tiên nữ mắt phượng mày ngài, mũi dọc dừa, miệng mỉm cười tươi, tóc vương trước trán, tai to, dài như tai Phật. Lớp dưới của tầng thứ 2 chạm một dải cánh sen chồng xếp rất tinh tế.

 
 
 

 Toàn bộ cửa võng thếp vàng rực rỡ, từng nét nhỏ đều được trang trí kỹ lưỡng.
Hình tượng Rồng Mây Lửa là chủ đạo. Từng ô cửa có hình đầu rồng đối nhau từng đôi một. Ảnh: V.T (kt)

Tầng thứ ba của cửa võng có độ cao từ 5m đến 5,7 m gồm ba phần. Phần trên chia ra ba lớp diềm thấp dần và lui dần vào, trong đó lớp thứ nhất và lớp thứ ba chạm thủng hình mây lá cách điệu. Lớp thứ hai chạm thủng hình mắt võng có gờ diềm hình cách sen. Phần giữa chia thành bốn khoảng ngăn cách nhau bởi ba khoảng nhỏ. Ba khoảng nhỏ chạm thủng hoa cách điệu. Dưới đáy của tầng thứ ba nhô ra ba tượng đầu chim phượng, mỗi con ngậm một đèn lồng.

 
 

Tầng thứ tư là tầng chính của bức cửa võng, gồm nhiều phần phân bổ từ độ cao 2,8m đến 5m. Phía dưới thụt vào là một dải trang trí chia làm ba đoạn ngắn bởi bốn lớp. Lớp ngoài hình da cá chạm mây lá cách điệu, lớp trong là một băng nhỏ chạy dài chia thành tám ô không đều nhau, trong các ô chạm thủng hoa văn hình học kết hợp hoa lá cách điệu. Dưới cằm của bốn đầu rồng chạm hình cánh sen.

Phần dưới chia ra làm 7 khoang tạo thành 3 khám. Trụ các khoang đồng thời là thành của cửa khám. Hai trụ khoang ở hai đầu sát liền với hai cột cái trong, chạm lộng các khóm, trong đó chạm một hình cô gái ngồi, tay phải vuốt túm tóc dài rủ xuống ngực, tay trái vin cành tre, tai dài đeo hoa, tạo nên vẻ e thẹn, kín đáo, duyên dáng.

Một hình tượng cụ già ở trên cành tre có bộ râu dài, tay phải tì lên gối, tay trái đặt lên bàn cờ, bàn cờ quay ra hướng chính diện. Trụ bên trái chạm khóm trúc, dưới cùng chạm người cưỡi voi, con voi đang ngửa mặt, vươn vòi lên quấn lá tre. Hình người tay trái đặt lên đầu voi, tay phải ôm lấy cây măng mọc thẳng. Lẩn vào các khóm trúc có chim và thú. Hai trụ khoang này là bức tranh hoàn chỉnh, bố cục rất sinh động những cảnh chân thực ở nông thôn.

Sáu trụ khoang phía bên trong chạm rồng cuốn cột, đầu quay lên chầu nhau qua cửa khám. Bốn khoang nhỏ đều chạm thủng từng cặp rồng, trên và dưới cùng chầu vào bông hoa nhỏ. Ba khoang lớn tạo thành các khám ăn sâu vào chín lớp hun hút, các diềm đứng của ba lớp ngoài chạm thủng hình mây, các diềm ngang ở trên của chín lớp chạm mây cách điệu trong bố cục dạ cá, lớp diềm nào hai đầu cũng có hình tượng đầu rồng nhô ra đỡ. Mỗi khoang khám có 18 đầu rồng, 3 khám tổng cộng có 54 đầu rồng, tất cả đều thống nhất một phong cách, nhưng không lặp đi lặp lại đơn điệu, con nào cũng có dáng vẻ riêng, linh hoạt.

 
 
 
 

Phần đế có ba dải băng, băng trên dải lá sòi ngửa, băng dưới chạm thủng hình cánh sen xếp. Chúng ta còn bắt gặp ở phần diềm bên trong những hình tượng phong phú hơn. Phía dưới chân chạm một cái sập chân quì dạ cá, trên sập có con voi, dưới bụng voi có một người cởi trần đóng khố, tay phải vin vành nhạc voi, mặt ngoảnh ra phía trước, các chi tiết trên chân dung đều được tả khá kỹ.

Chếch về phía sau vòi voi còn hình một người khác, cũng cởi trần đóng khố, đang đứng lấp ló. Phía sau con voi, một thân cây cổ thụ có hình một con rồng quấn chặt, một chân nắm râu, ba chân khác nắm ba con thú, dáng vẻ tinh nghịch. Quanh mình rồng những cụm mây lửa bốc lên mền mại, khỏe khoắn.

Cửa võng ở đình Diềm được trang trí kỹ lưỡng làm nổi bật, thu hút mọi người từ khi mới bước vào cửa đình. Các cột rồng được sử dụng kỹ thuật chạm lộng hết sức tinh xảo, các lớp cột rồng xoắn xít vào sâu tạo lớp lang tầng tầng lớp lớp, hình rồng luồn lách lúc ẩn lúc hiện tới chín tầng ăn sâu vào trong.

Phía ngoài trang trí chạm thủng tạo thành những đường diềm chạy dài được ngăn bởi mảng chạm dọc theo thân cột cái, điểm nhấn của đình chính là bộ cửa võng uy nghi lộng lẫy. Nếu bóc tách những mô típ rồng ra khỏi thành phần kiến trúc chắc sẽ giảm giá trị nghệ thuật đi rất nhiều. 

 
 
 
 
 
 

Nhang án được sơn son thếp vàng rực rỡ, chân quỳ chạm hình rồng, các tầng diềm được trang trí bằng nhiều hình rồng, vân mây, hoa bốn cánh với kỹ thuật chạm lộng, chạm nổi, chạm thủng.

  Hai bên là ván chạm thủng hình “Song nghê triều dương” (hai con nghê chầu mặt trời) và 4 con rồng chầu vào vòng sáng nhọn đầu của chữ “Phúc”. Bên cạnh các hình chạm khắc này, nhang án còn có những hình chạm rất đặc sắc, trong đó có cả hình tượng các cô thôn nữ xinh đẹp, yểu điệu.

Trên bàn thờ Đình Diềm còn có đôi phỗng và một số đồ thờ khác cũng là những tác phẩm nghệ thuật trong thể loại tượng tròn đẹp; những câu đối, đại tự đều được sơn thếp công phu, nội dung chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc, góp vào sự vẻ vang của Đình Diềm.

Hai bên ngai thờ tại tòa đình làng Diềm còn có đôi phỗng chầu. Đây là hai tác phẩm tượng tròn dân gian có giá trị nghệ thuật khá đặc sắc. Phỗng ngồi dáng quì, hai tay chắp kính cẩn đưa lên phía trước. Song những chi tiết trên thân thể phỗng lại không thống nhất với dáng quì nghiêm cẩn, chẳng hạn đầu búi tóc xoắn thành hai cái sừng ở phía trên tai.

Dân làng Diềm vẫn gọi đôi tượng phỗng này là tượng phỗng Chàm (có lẽ tượng mang phong cách điêu khắc của người Chàm). Nếu đối chiếu với “Việt sử thông giám cương mục” vào những năm 1069, 1074, 1075 Lý Thái Tổ và Lý Thường Kiệt có đưa về nhiều nghệ nhân và tướng sỹ người Chàm về để xây dựng nhiều công trình văn hóa, thì đôi phỗng này được dân làng Diềm gọi là phỗng Chàm là có lý.

Khác với rất nhiều đình, trước đây khoảng 300 năm trước, dân làng đã cử ra những cô gái duyên dáng, xinh đẹp và lịch thiệp để đón khách, mời nước, mời trầu tại đình làng. Đó cũng là nét đẹp độc đáo trong quan hệ xã hội ứng xử giao tiếp của người Quan họ làng Diềm. 

Năm 1964, đình Diềm đã được Bộ Văn hóa cấp Bằng công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật.

Nguồn: Văn hiến Việt Nam

Ths Nguyễn Thy Ngà

Trở về đầu trang
   Đình Diềm làng Diềm xã Hòa Long huyện Yên Phong thành phố Bắc Ninh danh tướng Triệu Việt Vương Đức Thánh Tam Giang Trương Hống Trương Hát
4.666667   Tổng số:3 lượt

Các tin khác

  • Đình Thanh Sơn, thờ phụng Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát và Châu Lan Đại vương
  • Nghệ thuật kiến trúc đặc sắc của Đình đá Tiên Phong
  • Hà Nam: Đình Quan Phố đón nhận Bằng xếp hạng Di tích cấp quốc gia
  • Đình Quan Phố và những nét kiến trúc nghệ thuật độc đáo
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật
  • Di tích đền phủ Ninh Xá ở Nam Định nơi lưu giữ 28 đạo sắc phong
  • Đình Nghĩa Chỉ, Tiên Du, thờ phụng Phùng Hưng và hai vị thủy thần
  • Đình, nghè Mai Động, thờ phụng Đô úy Tam Trinh triều Nhị vua Hai Bà Trưng
  • Đình Tây Đằng – Bảo tàng nghệ thuật kiến trúc thế kỷ 16
  • Di tích phòng tuyến sông Như Nguyệt - Địa danh gắn với chiến thắng lịch sử chống quân Tống
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Long An phát triển du lịch qua di tích lịch sử - văn hóa

    166
  • Quảng Nam: Tây Giang hướng đến phát triển du lịch xanh

    121
  • Hải Dương: Phường rối nước Thanh Hải được công nhận là điểm du lịch

    119
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật

    114
  • Cung đường mới - động lực lớn cho phát triển du lịch hồ Ba Bể (Bắc Kạn)

    109

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2025 Trang thông tin du lịch