• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
Văn hóaGiá trị lịch sử
  • UKEnglish

Giá trị lịch sử

Đình Kiều Hạ, thờ phụng Cao Sơn Đại vương, Qúy Minh Đại vương, Chiêu Minh Tôn thần và Chiêu Văn Tôn thần

Đình Kiều Hạ, nằm trong cụm di tích đình - chùa Kiều Hạ, thuộc thôn Kiều Hạ, xã Quốc Tuấn, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng thờ phụng thành hoàng làng là các nhân thần Cao Sơn Đại vương, Qúy Minh Đại vương, Chiêu Minh Tôn thần và Chiêu Văn Tôn thần.

Từ trung tâm thành phố Hải Phòng có thể đi bằng nhiều phương tiện với những ngả đường giao thông thuận tiện khác nhau, hỏi thăm về thị trấn An Dương, hoặc chân cầu Kiến An bên phía huyện An Dương, sau đó hỏi tiếp về UBND xã Quốc Tuấn, từ đây hỏi thăm về cụm di tích chúng ta sẽ được người dân địa phương chỉ dẫn nhiệt tình đến khu di tích.

Tên xã Quốc Tuấn xuất hiện sau năm 1945, lấy tên vị Anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn có công chỉ huy quân dân Đại Việt trong hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông ở thế kỷ XIII. Kiều Hạ ngày nay là một trong bốn thôn của xã Quốc Tuấn: Kiệu Hạ, Kiều Thượng, Nhu Kiều và Văn Xá.

Danh sách làng xã dưới triều Nguyễn làng Kiều Hạ có tên là Điều Yêu Hạ, thuộc tổng Điều Yêu ( còn gọi là Đào Yêu), tổng Đào Yêu có 10 xã: Đào Yêu, Đào Yêu Thượng, Đào Yêu Hạ, Đào Yêu Đông, Đào Yêu Trung, Nhu Điều, Tri Yếu, Hy Tái, Tiên Sa và Xích Thổ.

Năm 1901, các xã có tên Điều được đổi thành Kiều. Điều Yêu Hạ đổi thành Kiều Yêu Hạ và sau này được gọi ngắn gọn là Kiều Hạ. Kiều Hạ đã trở thành địa danh hành chính của địa phương.

Kiều Hạ, tên thuở ban đầu Kiều Yêu Hạ (嬌夭下),theo Hán tự có nghĩa là vùng đất tươi đẹp và ở phía dưới. Tên địa danh sau này đến đầu Thế kỷ XX được gọi ngắn gọn là Kiều Hạ, tuy là cách gọi mới nhưng vẫn cơ bản giữ được ý nghĩa như trên.

Kiều Hạ vùng đất, con người hình thành vào thời Hùng Vương và đến thời Lý- Trần Thế kỷ XII- XIII được ổn định. Những căn cứ để xác định đó là Thành hoàng làng Kiều Hạ phụng thờ là 4 vị danh tướng của thời Hùng Duệ Vương gồm: Cao Sơn Đại vương, Qúy Minh Đại vương, Chiêu Minh Tôn thần và Chiêu Văn Tôn thần. Trong đó hai ông Chiêu Văn và Chiêu Minh là người địa phương Kiều Hạ.

Một cứ liệu khác để chứng minh, tại chùa Kiều Hạ ( Linh Quang tự) còn tấm bia đá dựng niên hiệu Chính Hòa thứ 21 (1700), nội dung ghi rất nhiều người  công đức trùng tu ngôi chùa, bia cũng ghi chùa Linh Quang là danh lam cổ tích có từ rất lâu đời.

Xưa kia Kiều Hạ có 1 đình, 1 chùa và 3 miếu, miếu Sộp, miếu Liệu và miếu Khu Linh. Miếu Sộp, miếu Khu Linh thờ Thành hoàng; miếu Liệu, tương truyền thờ bà Liệu người trông coi, quản lý kho vũ khí cho quân đội, nhưng chưa rõ vào thời nào.

Kiều Hạ là quê hương giầu truyền thống yêu nước cách mạng, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, làng Kiều Hạ được Uỷ ban Hành chính kháng chiến liên tỉnh Hải - Kiến chọn làm căn cứ kháng chiến, giữ vị trí cầu nối, bàn đạp chống Pháp của huyện An Hải ( gồm huyện An Dương và huyện Hải An trước đây). Đình Kiều Hạ năm 1947 là nơi Đội Quyết tử huyện An Dương thành lập và ngày 8 tháng 2 năm 1947 làm lễ tuyên thệ tại chùa Kiều Hạ để bước vào cuộc kháng chiến.

Ông Trần Thành Ngọ chỉ huy trưởng lực lượng vũ trang tỉnh Hải Kiến đã về đình Kiều Hạ động viên, khích lệ Đội Quyết tử An Dương. Đội Quyết tử do ông Đặng Cương (Phạm Văn Vịnh) chỉ huy, ông Nguyễn Dần làm Chính Trị viên ( ông Nguyễn Dần sau làm Bí thư Thành ủy Hải Phòng).

Sau này đồng chí Đặng Cương hy sinh, đội mang tên Đại đội Đặng Cương. Đình Kiều Hạ là nơi bộ đôi Đặng Cương học tập, rèn luyện, là điểm xuất phát của đại đội Đặng Cương đi đánh địch trên các địa bàn thuộc huyện An Dương. Đình cũng là nơi tổ chức giáo dục những thanh niên lầm đường, lạc lối cầm súng theo giặc để trở về với nhân dân.

Trước phong trào kháng chiến mạnh mẽ của dân làng Kiều Hạ, kẻ thù đã tìm cách càn quét, tàn phá nơi đây. Điển hình là ngày 7 tháng 5 năm 1947, kẻ thù đã dùng lực lượng lớn đánh vào làng Kiều Hạ, chúng đốt phá 156 nóc nhà và giết hại 157 người dân của làng, trong đó có nhiều gia đình bị tàn sát cả nhà.

Tuy mất mát, đau thương, nhưng nhân dân Kiều Hạ vẫn kiên trung, anh dũng giữ vững tinh thần chiến đấu đi theo kháng chiến đến ngày toàn thắng. Sự kiện ngày 7 tháng 5 năm 1947 đã được nhân dân Kiều Hạ dựng bia khắc ghi tội ác của kẻ thù thực dân, đế quốc và tay sai.

Vào ngày đó hàng năm nhân dân tổ chức thành ngày giỗ trận của dân làng để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào quê hương. Đồng thời khắc sâu tội ác của kẻ thù, quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do của tổ quốc.

Trong các cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc Kiều Hạ có 4 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 1 gia đình được tặng bằng có công với nước, 119 liệt sĩ, 43 thương bệnh, binh. Đặc biệt trong kháng chiến chống Pháp làng Kiều Hạ vinh dự có ông Đinh Văn Phờ được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.

Những thành tích xuất sắc trong kháng chiến chống Pháp của làng Kiều Hạ đã góp phần to lớn xây dựng nên xã Quốc Tuấn trở thành đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Đình Kiều Hạ

Đình Kiều Hạ thờ bốn vị Thành hoàng: Cao Sơn Đại vương, Quý Minh Đại vương, Hoàng Triều Tôn thần và  Hoàng Bá Tôn thần. Các vị Thành hoàng là những danh tướng của Hùng Duệ Vương, vua Hùng đời thứ 18. Theo bản thần tích của đình Kiều Hạ và sách “Từ điển bách khoa địa danh Hải Phòng”, thân thế, sự nghiệp của bốn vị Thành hoàng thờ tại đình Kiều Hạ được tóm lược như sau:

Nguyễn Sùng tên hiệu Cao Sơn Đại vương có người em là Qúy Minh Đại vương, hai ông cùng sinh ngày 15 tháng 9, cùng hóa ngày 10 tháng 2 thời vua Hùng Vương thứ 18.

Thân phụ là Nguyễn Danh Đính, thân mẫu là Cao Thị Nham, quê ở động Lăng Thương ( còn đọc là Lăng Xương), phủ Gia Hưng, tỉnh Sơn Tây ( nay thuộc Hà Nội). Khi 12 tuổi bố mẹ qua đời hai ông được người anh họ là Tản Viên đưa về nuôi, coi như người ruột thịt. Hàng ngày 3 anh em kiếm củi làm kế sinh nhai.

Sơn Thánh Tản Viên được Thái Bạch thần tinh và vua Thủy Tề cho cây gậy trúc thần và sách ước để làm việc thiện cứu dân giúp đời. Người dân tôn vinh Tản Viên Sơn Thánh, Tản Viên phong cho Cao Sơn là Tả thần, phong cho Qúy Minh là Hữu thần, chia nhau cai quản các vùng rừng núi.

Thời đó ở trang Điều Yêu Hạ, phủ Kinh Môn, xứ Hải Dương có vợ chồng ông Phạm Hòa và bà Trần Thị Diệu, gia đình hiền lành phúc hậu, ham làm điều thiện. Gia đình ông bà là hào trưởng trong vùng.

Ông bà sinh được hai người con trai khôi ngô tuấn tú, người anh được đặt tên là Văn, người em tên Minh. Năm 12 tuổi tài năng hơn hẳn người thường, dốc lòng nghiên cứu văn chương, võ lược. Năm 18 tuổi hai ông đều quyết chí lập công giúp nước. Hai anh em đến kinh đô học tập, luyện rèn.

Thời gian đó Vua Hùng lập trường kén rể ở Bạch Hạc, Việt Trì, hai anh em Văn, Minh đều ứng thi nhưng không đạt. Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn Đại vương và Qúy Minh Đại vương cũng đến trường thi. Sơn Thánh dâng lễ trước và được vua gả công chúa và đưa về động trong núi.

Cao Sơn khi về gặp hai anh em Văn, Minh, thấy hai người khôi ngô, tuấn tú chí khí hơn người, hỏi rõ nguồn gốc rồi nhận làm con nuôi, yêu thương như con đẻ. Sơn Thánh được vua phong làm Tả Đô đài Đại phu, Qúy Minh làm Hữu Đô đài Đại phu. Cao Sơn đổi tên cho hai người con nuôi theo dòng dõi Hoàng tộc, ông Văn là Hoàng Triều, ông Minh là Hoàng Bá.

Sau thời gian đó Thục Phán vốn là cháu ngoại vua Hùng dẫn quân đến xâm lấn. Sơn Thánh tâu nhà vua cử Cao Sơn làm Dũng liệt Đại tướng quân; Hoàng Triều là Tuần kiểm úy, Hoàng Bá làm Phòng nhung úy, quản lĩnh 5 ngàn thủy quân, 300 chiến thuyền để đồn trú tại các cửa bể. Cử Qúy Minh làm Hùng Uy tướng quân dẫn 5 vạn tinh binh, 300 quân kỵ trấn thủ chặn đánh quân địch theo đường bộ.

Hoàng Triều, Hoàng Bá xin với cha nuôi về qua Kiều Hạ, các Ngài thấy nơi đây là vùng đất hiểm yếu có nhiều dòng chảy bao bọc, nước đổ về. Các Ngài cho chiêu mộ tráng đinh, lập đồn binh để tiếp ứng đánh địch.

Xếp đặt xong mọi việc các ông mang quân đi đánh giặc, đến sông Lục Đầu gặp địch, các ông ra sức tiến đánh, hai tướng giặc là Hùng Cự và Sầm Thúc bị giết. Quân giặc thua to, chúa Thục phải chạy về nước, quân ta về triều báo tiệp.

Đức ngài Cao Sơn cùng hai người con nuôi về Kiều Hạ khao quân, trẻ già trai gái rất mừng vui và xin được làm thần tử. Đất nước thanh bình vua phong Cao Sơn làm Quyền chưởng quốc tiết chế Võ định công, Hoàng Triều làm Hữu Đô lang, Hoàng Bá làm Tả Đô lang.

Sau thời gian đó song thân của hai ông qua đời, vua cho Hoàng Triều, Hoàng Bá về cư tang cha, mẹ. Hai ông thờ cúng hiếu kinh ba năm, mãn tang về triều nhậm chức. Nhà vua thưởng công cho hai ông nên ban cho Kiều Hạ được miễn trừ thuế khóa, lao dịch.

Dân Kiều Hạ đều ca ngợi công ơn của hai ông. Vua Hùng ở ngôi được 105 năm sau đó cơ đồ họ Hùng chuyển về tay Thục. Cao Sơn bỏ quan về sống ẩn dật nơi quê nhà tại núi Tung Sơn, nằm ở bên phải núi Tản Viên, sau đó ông mất vào ngày 10 tháng 2. Chúa Thục thấy Ngài là bầy tôi trung liệt có nhiều công lớn, nên phong cho Ngài là Cao Sơn Thượng đẳng thần và lệnh trong nước nơi nào Đại Vương đóng quân được dựng đền, miếu phụng thờ.

Sau khi Cao Sơn Đại vương mất, đức ngài Hoàng Triều, Hoàng Bá về Kiều Hạ cùng dân làng dựng miếu thờ Cao Sơn Đại Vương. Hai ông sống cùng dân trại lấy nhân nghĩa để cố kết lòng người, mang tín lễ để rèn thành mĩ tục, hết lòng giúp đỡ người nghèo khổ.

Người dân đều ca ngợi công đức của hai ông như trời, đất như cha mẹ của mình. Được ba năm, hai ông bị bệnh, trước khi mất hai ông mời dân làng đến trao cho 300 quan tiền để mua ruộng đất dùng cho việc thờ cúng và xin được phối thờ ở dưới ban thờ người cha nuôi.

Hai Ngài cùng mất ngày 10 tháng Chạp. Nhân dân Kiều Hạ làm lễ an táng hai ông tại nơi đất lành, rồi viết thần hiệu Hoàng Triều, Hoàng Bá lên thần vị để thờ cúng chung với miếu thờ của Cao Sơn Đại Vương. Niên hiệu Hưng Long thứ 20 (1312 ), vua Trần Anh Tông gia tặng cho Cao Sơn duệ hiệu: Anh uy, Cương đoán, Phù hóa, Đôn nghĩa. Nhiều triều đại ban sắc phong cho Cao Sơn Thượng đẳng thần, Hoàng Triều, Hoàng Bá là tôn thần. Sau này dân làng Kiều Hạ tôn thờ bốn vị làm Thành hoàng và tạc tượng để phụng thờ.

Thần tượng Đình Kiều Hạ

Đình Kiều Hạ theo tương truyền được khởi dựng vào thời Hậu Lê, Thế kỷ XVII – XVIII, trải qua thăng trầm của lịch sử công trình đã bị hủy hoại, năm 1986 đình được từng bước xây dựng lại trên nền đất cũ. Đình Kiều Hạ hiện nay là công trình kiến trúc truyền thống nhìn về hướng Tây Nam, tọa lạc trên khuôn viên đất rộng trên 1200 m2.

Ngôi đình làm bằng vật liệu hiện đại kết hợp với vật liệu thiên nhiên. Đình có mặt bằng kiến trúc chữ công, mái tòa tiền tế chéo đao tầu góc, lợp ngói mũi hài lớn. Trên mái đình được đắp trang trí theo đồ án truyền thống như đỉnh giữa bờ nóc đắp lưỡng long chầu nguyệt, hai đầu bờ nóc đắp kìm, các góc đao đắp tổ hợp rồng chầu, phượng vũ.

Đình cấu trúc tiền tế 5 gian, 2 gian ống muống và 3 gian hậu cung cũng là cung cấm. Hệ thống khung chịu lực của đình Kiều Hạ làm bằng bê tông, cốt sắt, hệ thống cấu kiện đỡ mái bằng gỗ. Tiền tế cấu trúc 4 bộ vì chính, vì bốn hàng chân cột, kết cấu bộ vì theo thức vì nách thuận chồng bốn con, vì nóc thuận chồng 2 con và tạo giá chiêng.

Trên các cấu kiện kiến trúc đều được đắp trang trí đề tài truyền thống như lá lật, hoa sen cách điệu. Hệ thống cửa chính tòa tiền tế gồm ba bộ cửa làm bằng gỗ tốt, đóng theo kiểu cửa cổ, cửa thùng khung khách. Hai gian ống muống, bộ vì kết cấu hai hàng chân cột, cột quân thay bằng tường bao che, cấu trúc vì tương tự như bộ vì gian tiền tế.

Tòa cung cấm có nền cao hơn nền bên ngoài khoảng 35 cm, bởi vậy bước lên cung cấm phải qua bậc cấp. Cung cấm có ba cửa, cửa chính lớn ở giữa có bốn cánh, cửa nách hai bên, mỗi cửa hai cánh, các cửa làm theo thức cửa ba lô. Trong cung cấm, gian chính điện xây bệ thờ lớn, trên bệ thờ đặt trang trọng thánh tượng của bốn vị Thành hoàng.

Đình Kiều Hạ tuy trải qua binh lửa chiến tranh, nhưng đến nay vẫn còn bảo lưu được khá nhiều đồ thờ tự, tế khí có giá trị về lịch sử, mỹ thuật, nhiều hiện vật đã trở thành cổ vật như: thánh tượng, câu đối, đại tự, nhang án, kiệu bát cống…Xin giới thiệu một số di vật tiêu biểu như sau:

- Thần tượng: gồm bốn vị Thành hoàng được tạc bằng gỗ quý, ngồi trong long ngai. Bốn vị thần tượng và long ngai đều được chạm khắc với phong cách tương đồng, rất tinh xảo và có giá trị mỹ thuật cao. Thần tượng có kích thước lớn hơn người thường một ít, ngồi tự nhiên, chân buông thẳng, hai bàn tay với các ngón tay búp măng dài đặt úp tự nhiên trên đầu gối, thần tượng trong tư thế thiết triều. Thần tượng mặc phẩm phục, đội mũ cánh chuồn, chân đia hia.

Trên các vị trí bối tử, đầu gối, vai phẩm phục đều được thêu rõ long, vân hội, phía dưới vạt áo của phẩm phục thêu sóng nước. Tượng mặt vuông chữ điền, mắt nhìn thẳng, có hàng ria mép trên miệng và chòm râu dài. Thần thái thể hiện sự cương nghị, nhưng cũng rất nhân hậu, bao dung. Toàn bộ tượng được sơn son, thếp bạc, phủ mầu vàng kim đẹp lung linh. Qua hoa văn tạo tác trên phẩm phục có thể xác định bốn thần tượng được tạo tác trong cùng thời gian và có niên đại cuối Thế kỷ XIX.

- Kiệu bát cống: kiệu bát cống làm bằng gỗ quý và nhẹ, kiệu thuộc loại kiệu trung. Kiệu gồm 8 người khiêng, dùng để rước thánh trong các dịp lễ hội làng. Kiệu cấu tạo gồm 4 cặp thanh rồng, các cặp thanh rồng được kết nối với nhau thành ba tầng qua những chốt sắt và bánh chè, bởi vậy khi tháo lắp dễ dàng và khi rước kiệu có thể di chuyển quay các hướng một cách thuận tiện.

Các thanh rồng được chạm khắc tinh xảo với hình rồng có đầy đủ đầu, thân và đuôi. Đầu rồng chạm nổi rõ mắt lồi, có những chùm râu, tóc dài bay theo chiều gió về phía sau, thân rồng tạc nổi những hàng vảy ken chồng lên nhau thành từng lớp, đuôi rồng uốn cong tỏa rộng dài ra về phía sau như những dải mây.

Trên kiệu đặt long đình, long đình nối kết với kiệu qua hệ thống mộng xuyên, khi cần có thể nhấc ra khỏi kiệu. Trên long đình cũng được chạm khắc rất tinh xảo và đẹp với các đề tài tứ linh, tứ quý hoa lá thiêng. Đây là bộ kiệu long đình còn nguyên vẹn có giá trị mỹ thuật cao. Qua những nét hoa văn tạo tác có thể xác định được bộ kiệu long đình được chế tác và cuối Thế kỷ XIX.

- Câu đối: hai bộ câu đối được tạo tác có kích thước kiểu dáng tương đồng nhau, câu đối kiểu lòng máng, có kích cao và khá lớn được treo trang trọng trên cột cái tòa tiền tế. Diềm câu đối chạm khắc hoa văn hoa dây, câu đối chạm trang trí theo thức thượng cầm, hạ thú, phía trên đầu câu đối chạm nổi hình chim phượng, dưới câu đối chạm nổi hình lân trong mây. Câu đối chạm nền hoa gấm, khắc nổi đối liễn bằng chữ Hán sơn then.

-Câu đối treo cột cái gian trung tâm tòa tiền tế

Chữ Hán:

-  翊保雄圖故國有喬木

- 光谁越史施惠及下民

  Phiên âm:

- Dực bảo Hùng đồ cố quốc hữu kiều mộc

-Quang thùy Việt sử thí huệ cập hạ dân

   Dịch nghĩa:

- Gíup sức triều Hùng, nước xưa có danh tướng

- Sử Việt sáng danh, ân huệ để cho dân

Câu đối thứ 2, treo tại cột cái gian bên tòa tiền tế;

Chữ Hán:      - 護國庇民越地千秋增錦秀

                      - 扶危助難南天萬古印輝煌

Phiên âm:

- Hộ quốc tí dân, Việt địa thiên thu, tăng cẩm tú

- Phù nguy, trợ nan, Nam thiên vạn cổ, ấn huy hoàng

Dịch nghĩa:

-  Gíúp nước, cứu dân, đất Việt ngàn năm thêm mãi đẹp

- Chuyển nguy, giải hạn, trời Nam muôn thuở rõ huy hoàng

Hai câu đối không đề lạc khoản, nhưng qua hoa văn trang trí trên câu đối có thể xác định câu đối có niên đại đầu Thế kỷ XX, câu đối do cộng đồng dân làng cung tiến vào đình Kiều Hạ.

Xưa kia nhân dịp tưởng niệm ngày mất của Cao Sơn, Qúy Minh, ngày 10 tháng 2 âm lịch, nhân dân Kiều Hạ tổ chức hội làng trong ba ngày 8, 9 và 10. Trong hội lễ có rước thánh từ đình ra miếu Sộp, sau đó đi quanh làng rồi về đình tế lễ. Lễ rước thánh có kiệu, long đình, bát hương và các nghi trượng, nghi vệ như: bát biểu, tàn tán lọng, chấp kích…Ngoài phần tế lễ dâng hương thánh, lễ hội còn có những trò chơi thi đấu như: đấu vật, bắt vịt, đi cầu thùm, đu tiên…Ngày nay địa phương đang từng bước kế thừa và phát huy những nét văn hóa đặc sắc trong lễ hội làng của tiền nhân để lại.

Chùa Kiều Hạ

Chùa Kiều Hạ, nằm trong cụm di tích đình – chùa Kiều Hạ xã Quốc Tuấn. Chùa Kiều Hạ có tên Nôm là chùa Hang, tên chùa Hang, được giải thích bởi tại khuôn viên chùa có hang nước ngọt, song tên Nôm chùa còn gợi mở cho chúng ta suy nghĩ về thời gian ngôi chùa hình thành từ rất xa xưa, vì tên Nôm của người Việt thường được sử dụng trước Thế kỷ X.

Chùa có tên chữ là Linh Quang (靈光), tên mang ý nghĩa ánh sáng linh thiêng của Phật pháp được chiếu rọi tới nơi đây. Qua nghiên cứu về những cổ vật hiện ngôi chùa đang lưu giữ, bảo tồn như bia đá, tượng pháp …có thể xác định chùa Kiều Hạ được xây dựng muộn nhất vào thời Mạc, Thế kỷ XVI. Bởi trong bia đá dựng niên hiệu Chính Hòa thứ 21 (1700), ghi việc trùng tu lớn ngôi chùa, có ghi chùa Linh Quang là nơi cổ tích danh lam có từ rất lâu đời.

Thời điểm trùng tu trên sư trụ chùa là vị tăng Phạm Minh Hào, tên chữ là Huyền Văn, người xã An Hựu (nay là thôn An Hựu, xã Khởi Nghĩa, Tiên Lãng).

Trong đợt đại trùng tu chùa lớn nêu trên văn bia ghi rõ làm lại thượng điện, thiêu hương, tu bổ lại tượng, đúc hồng chung (chuông lớn) và làm một số pho tượng mới…

Chùa Kiều Hạ

Cũng như đình Kiều Hạ, chùa Kiều Hạ cũng có những thành tích tham gia đóng góp trong sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp của địa phương. Nhà sư Thích Thanh Mỹ trụ trì chùa Kiều Hạ trong thời gian kháng chiến chống Pháp đã có nhiều công lao, nên ông đã được tặng Huân chương kháng chiến hạng 3. Trải qua thăng trầm của lịch sử ngôi chùa Kiều Hạ đã bị hủy hoại trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Năm 2010 chùa Kiều Hạ được xây dựng lại trên nền đất cũ, thế đất chùa tọa lạc trên gò đống rất cao ráo, theo các nhà phong thủy chùa nằm trên lưng của con rùa. Bên cạnh chùa có lạch nước thông ra sông Lạch Tray, trước đây thuyền bè của người dân làm ăn trên sông nước vào neo đậu tại đây để lấy nước ngọt và lên chùa lễ Phật.

Chùa Kiều Hạ hiện nay làm bằng chất liệu hiện đại kết hợp với vật liệu truyền thống. Chùa có mặt bằng kiến trúc chữ đinh truyền thống, gồm 5 gian tiền điện và 3 gian hậu điện.

Chùa xây kiểu đầu hồi bít đốc, trụ đấu tay ngai. Bộ khung tòa tiền điện có kích thước khá cao, tạo cho nội thất chùa thông thoáng, cấu trúc bộ khung gồm 6 bộ vì, vì 5 hàng chân cột, có hệ thống cột hiên, trên cột hiên được đắp nổi hình rồng uốn lượn trong mây trong tư thế bay lên.

Các bộ vì kết cấu, vì nách thuân chồng 3 con, vì nóc thuận chồng 2 con và tạo thành giá chiêng. Trên các cấu kiện của bộ vì đều được đắp trang trí hoa văn theo thức truyền thống lá guột, hoa sen cách điệu. Tòa hậu điện cấu trúc gồm 4 bộ vì, vì hai hàng chân cột, hệ thống cột quân không có, cấu kiện xà gác trên tường bao che của chùa. Kết cấu các bộ vì của tòa hậu điện tương tự như bộ vì tòa tiền điện.

Trải qua thăng trầm lịch sử và binh lửa chiến tranh chùa Kiều Hạ còn gìn giữ được nhiều cổ vật có giá trị về lịch sử văn hóa và mỹ thuật. Xin giới thiệu một số cổ vật tiêu biểu như sau:

- Tấm bia đá: “Trùng tu Linh Quang tự” (重修靈光寺),bia đặt trên lưng rùa đá, trên diềm bia, trán bia đều chạm khắc hoa văn trang trí rất đẹp. Bia dựng niên hiệu Chính Hòa, đời vua Lê Hy Tông thứ 21 (1700). Soạn văn bia là vị chức sắc của làng có tên là Phạm Minh, tên chữ là Huyền An.

 - Chuông đồng: Chuông cao 110 cm. đường kính miệng 63 cm, bia đúc niên hiệu Gia Long thứ 13 (1814)

 - Tượng Phật: tổng số 15 pho tượng gồm: tam thế 3 pho, Adi đà tam tôn 3 pho, Hoa nghiêm tam thánh 3 pho, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu 3 pho, tượng Đức Ông, tượng Mẫu, tượng Khuyến thiện, Trừng ác, Thích Ca sơ sinh. Hệ thống tượng của chùa có niên đại trải dài từ Thế kỷ XVII đến đầu Thế kỷ XX. Hệ thống tượng Phật chùa Kiều Hạ là bộ sưu tập tượng Phật rất cổ kính còn lại rất ít của các chùa trong huyện An Dương

Tại chùa Kiều Hạ hàng năm vào các dịp lễ Phật đản 8 tháng 4 âm lịch; ngày hội chùa đầu xuân 9 tháng Giêng, lễ Thượng Nguyên. Ngày 14 tháng 7 âm lịch, ngày giỗ của vị sư tổ Thượng tọa Thích Thanh Mỹ, nhà chùa lấy làm ngày giỗ tổ chung của chùa, Đặc biệt ngày 7 tháng 5 âm lịch được quy ước là ngày giỗ trận chung của cả làng, tại đình, chùa Kiều Hạ, nhân dân tổ chức dâng hương để tưởng niệm, cầu siêu cho những người dân vô tội bị thực dân Pháp sát hại năm 1947.

Chùa Kiều Hạ hiện nay do nhà sư Thích Thanh Nguyên trụ trì, nhà sư cũng đã gắn bó với ngôi chùa gần 40 năm. Những công trình kiến trúc hiện có tại chùa hầu như do nhà sư cùng nhân dân tạo dựng. Nhà chùa hiện có trên 300 hội viên Hôi quy hướng về Phật, hành đạo.

Chùa Kiều Hạ có khuôn viên cảnh quan đẹp với hồ nước trong mát có hoa sen nở rực rỡ, nhiều cây cổ thụ trong vườn, có vườn tháp với 6 mộ tháp, trong đó có 5 mộ tháp cổ kính, chứng minh cho chiều dài thời gian với những tầng lớp các vị sự trụ trì tại chùa. Chùa Kiều Hạ còn tiềm ẩn khá nhiều những giá trị lịch sử văn hóa cần được tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu.

Đình - chùa Kiều Hạ với những giá trị hàm chứa đang trở thành một địa chỉ đỏ để người dân trong và ngoài địa phương đến chiêm bái, tri ân những sự hy sinh anh dũng của tiền nhân trong công cuộc kháng chiến chống Pháp thần thánh của dân tộc. Đồng thời tìm đến một vùng quê văn hóa mang dấu tích từ thời Hùng Vương dựng lên nhà nước Văn Lang, quốc gia đầu tiên của người Việt.

Nguyễn Thị Sen

Nguồn: Cổng thông tin điện tử xã Quốc Tuấn

Trở về đầu trang
   Đình Kiều Hạ cụm di tích đình - chùa Kiều Hạ thuộc thôn Kiều Hạ xã Quốc Tuấn huyện An Dương thành phố Hải Phòng thờ phụng Cao Sơn Đại vương Qúy Minh Đại vương Chiêu Minh Tôn thần Chiêu Văn Tôn thần
0   Tổng số:

Các tin khác

  • Đình Thanh Sơn, thờ phụng Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát và Châu Lan Đại vương
  • Nghệ thuật kiến trúc đặc sắc của Đình đá Tiên Phong
  • Hà Nam: Đình Quan Phố đón nhận Bằng xếp hạng Di tích cấp quốc gia
  • Đình Quan Phố và những nét kiến trúc nghệ thuật độc đáo
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật
  • Di tích đền phủ Ninh Xá ở Nam Định nơi lưu giữ 28 đạo sắc phong
  • Đình Nghĩa Chỉ, Tiên Du, thờ phụng Phùng Hưng và hai vị thủy thần
  • Đình, nghè Mai Động, thờ phụng Đô úy Tam Trinh triều Nhị vua Hai Bà Trưng
  • Đình Tây Đằng – Bảo tàng nghệ thuật kiến trúc thế kỷ 16
  • Di tích phòng tuyến sông Như Nguyệt - Địa danh gắn với chiến thắng lịch sử chống quân Tống
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Long An phát triển du lịch qua di tích lịch sử - văn hóa

    165
  • Quảng Nam: Tây Giang hướng đến phát triển du lịch xanh

    121
  • Hải Dương: Phường rối nước Thanh Hải được công nhận là điểm du lịch

    118
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật

    112
  • Cung đường mới - động lực lớn cho phát triển du lịch hồ Ba Bể (Bắc Kạn)

    107

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2025 Trang thông tin du lịch