• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
Văn hóaGiá trị lịch sử
  • UKEnglish

Giá trị lịch sử

Đình Quan Đình, Nam Sách, thờ phụng nhị vị đại vương thời Nhị vua Hai Bà Trưng và danh tướng thời Trần

Đình Quan Đình tọa lạc tại thôn Hảo Quan, xã Đồng Lạc (Nam Sách). Quan Đình thời xưa là một vùng đất có tên trang Lan Đình, sau đó đến thời phong kiến đổi thành làng Bạch Lật, xã Quan Đình, tổng Lạc Nghiệp, phủ Nam Sách.

 

Hai vị đại vương thời nhị vua Hai Bà Trưng

Sự tích truyền lại rằng, hai vị đại vương là anh em ruột, con ông Đào Trung và bà Tạ Thị Phương, quê tại Ái Châu, phủ Thiệu Thiên, huyện Thạch Hà. Hai ngài cùng sinh một bọc ngày 12 tháng 8 (âm lịch). Cha mẹ đặt tên cho con thứ nhất là Nguyễn Công Thành, người con thứ hai là Nguyễn Đắc Chí.

Lớn lên, cả hai đều thông minh, tài trí hơn người. Một hôm, hai ngài đến quận Giao Chỉ (Hải Dương ngày nay) thấy một tòa tiểu miếu ở rìa đường đi, chữ đề là “Thượng đẳng tối linh từ”, hằng ngày có nhiều người đến lễ bái.

Thấy vậy, các ngài cũng vào làm lễ khấn mong địa thần chỉ bảo cho nơi quý địa được đời đời vinh hiển. Lễ xong, các ngài liền ngủ ngay cạnh miếu, quả nhiên thấy một thần uy về báo mộng cho biết hãy chọn trang Lan Đình, khu Bạch Lật, huyện Thanh Lâm làm nơi quý địa.

Các ngài bèn theo lời trong mộng liền tìm đến trang Lan Đình (nay thuộc thôn Hảo Quan, xã Đồng Lạc) làm nơi an cư lạc nghiệp. Sau này, các ngài đem di cốt tổ tiên cùng cha mẹ đến táng ở các huyệt khu đất ấy.

Thời bấy giờ, nước ta bị nhà Đông Hán đô hộ, quan thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định đề ra chính sách đồng hóa gắt gao và bóc lột người Việt hà khắc. Các lạc tướng liên kết với nhau để chống lại nhà Hán. Bà Trưng Trắc kết hôn với con trai Lạc tướng ở Chu Diên là Thi Sách, hai nhà cùng có chí hướng chống Hán. Khoảng năm 39-40, nhằm trấn áp người Việt chống lại, Thái thú Tô Định giết Thi Sách.

Chúa Bà Trưng Trắc, chúa Trưng Nhị cùng các Lạc tướng càng căm thù, khởi nghĩa, dấy binh đánh đuổi giặc Tô để báo thù cho chồng, rửa hận cho nước. Hai ngài đến xin làm tướng cùng Hai Bà Trưng đánh giặc. Sau khi dẹp yên giặc, chúa bà Trưng Trắc lên ngôi vua xưng là Trưng Nữ vương. Ông Nguyễn Công Thành được phong là Phó tướng Binh Khôi tướng quân, Nguyễn Đắc Chí được phong là Tả bật Điêu Bát tướng quân

Sau đó, hai ngài về khu Bạch Lật, trang Lan Đình để thăm viếng mộ phần rồi đặt tiệc đãi dân trang. Khi ấy, tự nhiên trời đất tối sầm, mưa gió ầm ầm, bất chợt các ngài hóa về trời chỉ còn khăn áo để lại (ngày 24 tháng 7). Nhân dân lấy làm lạ bèn tâu lên vua Trưng Nữ vương. Vua thấy các ngài có công lớn nên ban cho dân 800 quan tiền lập miếu ngay chỗ các ngài để áo khăn lại và phong làm Phúc thần, nhân dân bản trang hương hỏa thờ cúng.

Cây duối cổ thụ khoảng 500 năm tuổi cạnh đình

Thượng đẳng thần Nguyễn Công Vàng

Theo tư liệu “Thần tích - Thần sắc” và sự tích lưu truyền tại địa phương, Thượng đẳng thần Nguyễn Công Vàng sinh ngày 12 tháng giêng vào triều Trần tại xã Hạ Đỗ, huyện Trà Hương, phủ Kinh Môn (nay thuộc thôn Hạ Đỗ, xã Hồng Phong, huyện An Dương, TP Hải Phòng) trong một gia đình danh gia vọng tộc.

Ông là con trai cả trong gia đình có 4 anh chị em. Khi lớn lên, ông có tính bẩm thông minh nổi tiếng, trí dũng vượt trội, nhân dân ai nấy đều kính phục.

Bấy giờ, giặc Nguyên Mông đến xâm chiếm nước ta, Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn được nhà vua tin tưởng giao chiêu mộ quân sĩ, tìm người tài giỏi trong nước cùng ra trận đánh giặc cứu nước. Khi nghe tin triều đình mộ quân đến xã Hạ Đỗ, ông từ biệt mẹ cha, làng xóm xin đi theo Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn xông pha trận mạc.

Chiến đấu dũng cảm, tài trí thông minh, ông giúp quân vương nhà Trần đại thắng ở Bạch Đằng, bắt sống Ô Mã Nhi, được vua Trần Nhân Tông phong là Phó Đô Nguyên soái đại tướng quân.

Đến đời vua Trần Anh Tông (hiệu Hưng Long), giặc Ai Lao đem quân xâm chiếm nước ta, ông được nhà vua cử đi dẹp giặc. Ông chiêu mộ quân sĩ và xây dựng căn cứ tại trang Lan Đình.

Trận chiến quyết liệt, không may trên đường lui binh về đến xã Tháp Phan (nay thuộc xã Đồng Lạc), ông bị thương và tử trận ngày 10 tháng 4 năm Bính Ngọ (1306) nhưng lá cờ dấy binh của ngài bay đến trang Lan Đình. Sau đó, vua nhà Trần cho dân bản trang 400 quan để lập miếu thờ ngài và phong ngài là Anh vũ Dũng lược Thượng đẳng thần.

Do có công lao với nước nên qua các triều đại, 3 vị thành hoàng làng được vua triều Nguyễn ban 18 đạo sắc phong vào các năm Tự Đức thứ 6 (1853), 11 (1858), 33 (1880); Đồng Khánh thứ 2 (1887); Duy Tân thứ 3 (1909); Khải Định thứ 9 (1924). Trải qua sự biến thiên của thời gian, nhiều sắc phong đã bị mục nát và thất lạc.

Theo tương truyền, đình Quan Đình được khởi dựng từ khá sớm, tiền thân là ngôi miếu nhỏ làm bằng tranh tre để thờ các vị thành hoàng làng. Trải qua thời gian, đình bị hư hại. Đến thời hậu Lê (thế kỷ 17), nhân dân xây dựng, nâng cấp lại miếu thành ngôi đình và được trùng tu khang trang, to đẹp vào thời Nguyễn.

Năm 1953, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, đình bị hạ giải hoàn toàn. Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, nhân dân đã dựng một gian đình nhỏ trên nền đình cũ để thờ cúng các vị thành hoàng. Năm 2000, đình được nâng cấp thành 3 gian để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và tín ngưỡng nhân dân.

Năm 2014, đình được xây mới hoàn toàn theo kiến trúc kiểu chữ Đinh (J) gồm 3 gian đại bái và 1 gian hậu cung. Sân đình lát ngạch bát đỏ, mái lợp ngói mũi, cửa hậu cung đình làm bằng gỗ kiểu bức bàn, các góc mái đình có đắp đầu đao hình rồng, trên bờ nóc đắp hình “lưỡng long chầu nguyệt” tạo nên dáng vẻ của một ngôi đình làng truyền thống.

Đặc biệt, nơi đây vẫn giữ được cây duối cổ thụ quý khoảng 500 tuổi cạnh đình như “cây sử sống”, chứng kiến sự đổi thay của làng qua bao thăng trầm lịch sử.

Hằng năm, lễ hội chính của đình diễn ra vào ngày 20 tháng giêng âm lịch. Đây được xem là tế vọng giỗ vị Thượng đẳng thần Nguyễn Công Vàng. Lễ hội được tổ chức quy mô lớn, bao gồm rước thánh (3 năm rước 1 lần), giao lưu tế thánh giữa ba làng Hảo Quan, Pháp Than (xã Đồng Lạc) và Hạ Đỗ (An Dương, TP Hải Phòng) cùng nhiều trò chơi dân gian...

Thập Nhất

Nguồn: Báo Hải Dương

Ths Nguyễn Thy Ngà

Trở về đầu trang
   Đình Quan Đình thờ phụng danh tướng nhị vua Hai Bà Trưng thượng đẳng thần nhà Trần Nam Sách Hải Dương
0   Tổng số:

Các tin khác

  • Đình Thanh Sơn, thờ phụng Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát và Châu Lan Đại vương
  • Nghệ thuật kiến trúc đặc sắc của Đình đá Tiên Phong
  • Hà Nam: Đình Quan Phố đón nhận Bằng xếp hạng Di tích cấp quốc gia
  • Đình Quan Phố và những nét kiến trúc nghệ thuật độc đáo
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật
  • Di tích đền phủ Ninh Xá ở Nam Định nơi lưu giữ 28 đạo sắc phong
  • Đình Nghĩa Chỉ, Tiên Du, thờ phụng Phùng Hưng và hai vị thủy thần
  • Đình, nghè Mai Động, thờ phụng Đô úy Tam Trinh triều Nhị vua Hai Bà Trưng
  • Đình Tây Đằng – Bảo tàng nghệ thuật kiến trúc thế kỷ 16
  • Di tích phòng tuyến sông Như Nguyệt - Địa danh gắn với chiến thắng lịch sử chống quân Tống
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Long An phát triển du lịch qua di tích lịch sử - văn hóa

    163
  • Quảng Nam: Tây Giang hướng đến phát triển du lịch xanh

    120
  • Hải Dương: Phường rối nước Thanh Hải được công nhận là điểm du lịch

    116
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật

    111
  • Cung đường mới - động lực lớn cho phát triển du lịch hồ Ba Bể (Bắc Kạn)

    104

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2025 Trang thông tin du lịch