Quần thể chùa Kỳ Lân, Lăng phát tích Vua Đinh Tiên Hoàng thuộc thôn Hoài Lai, xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, cách thành phố Ninh Bình khoảng 18km, cách thị trấn Me khoảng 5km. Quần thể bao gồm Lăng phát tích vua Đinh Tiên Hoàng, chùa Hang và chùa Kỳ Lân.
Lăng phát tích Vua Đinh Tiên Hoàng là nơi yên nghỉ của đức
ông Đinh Công Trứ cùng các bậc tiền hiền nhà Đinh. Tương truyền, ông Đinh Công
Trứ, thân phụ của Đinh Tiên Hoàng (Quan thứ sử thời Nhà Ngô) thấy cảnh đẹp đã
mang mộ của ông nội nhà vua an táng tại ngai này.
Đây được coi là Long huyệt thiêng, điểm hội tụ được mọi khí
thiêng của trời đất, sông núi: Cả quả núi được coi là Lăng mộ, núi hình Kỳ Lân,
đầu quay về hướng Đông. Đứng ở phía Đông Nam nhìn Lăng như ngồi giữa ngai vàng…
Lăng được đặt vào huyệt đất cực kỳ quý: Huyền Vũ có núi Đỗ Thích, Bạch Hổ có
núi Long, núi Hổ (Long chầu, Hổ phục) quay đầu vào Lăng, Thanh Long có dãy đồi
Độc Lập như một bày voi quy phục chầu về, Chu Tước có núi Ngũ Nhạc (5 quả núi
nhỏ), sông Đại Hoàng uốn lượn như rồng sống động đầy khí lực chạy sát chân núi
Kỳ Lân, mang địa khí bồi bổ cho Long huyệt.
Trong sách “Bái Đính ngàn năm tâm linh huyền thoại”, nhà
nghiên cứu Trương Đình Tưởng có mô tả về “Truyền thuyết mả táng hàm rồng” như
sau: Dòng Đại Hoàng (sông Hoàng Long ngày nay) chảy sát chân núi Kỳ Lân, tạo
nên vùng nước xoáy không ai dám bơi qua.
Trước đây, Lăng phát tích được xây dựng trong ngai này, song
lâu ngày mưa gió làm hư hại. Đến năm 2009, Nhân dịp kỷ niệm 1.000 năm Lý Công Uẩn
dời Đô, Nhà nước trùng tu nâng cấp Lăng Nhà Đinh, Lăng cao khoảng 20m so với
cánh đồng dưới chân núi, đường lên Lăng phát tích được thiết kế với khoảng 50 bậc
đá chia làm 5 nhịp đều nhau.
Phía trước Lăng, dưới chân núi có sập đá để thờ bằng đá
nguyên khối chạm khắc nổi hình rồng mây, phía sau là đôi trụ cột đèn và nhang
án bằng đá xanh nguyên khối cũng chạm khắc nổi hình rồng mây, hoa sen.
Lăng phát tích vua Đinh Tiên Hoàng được xây dựng hai tầng
tám mái, mỗi đầu mái được đắp nổi hình rồng, lợp bằng ngói vảy. Bên trong lăng
có sập đá được chạm khắc nổi hình rồng, phượng, hoa sen để đặt đồ lễ thờ. Bên
trên sập đá còn có đôi lộc bình đặt trên đế bằng đá. Sau sập đá là nhang án bằng
đá chạm khắc cầu kỳ, sau đó là tấm bia lớn cao khoảng 2m, phía trên bia chạm
đôi rồng chầu nguyệt, ở giữa bia khắc chữ Hán và chữ Việt “Lăng phát tích vua
Đinh Tiên Hoàng đế”. Bên dưới chân bia đặt chóe đựng rượu và nước để thờ.
Lăng được xây dựng 3 gian, 4 hàng cột, hàng cột phía trước
có treo đôi câu đối:
Thủy cao sinh dưỡng vạn phúc lai
Sơn cao đức đại linh song mộ
Hàng cột phía sau có câu đối:
Phụng sự dòng tộc
Hưng thịnh quốc gia.
Lăng phát tích vua Đinh Tiên Hoàng
Phía trên núi Kỳ
Lân, bên cạnh Lăng Phát tích về phía Đông bắc núi, có Động Kỳ Lân (dân gian còn
gọi là động Đại Hữu) ở lưng chừng núi, có chiều dài gần 100 mét, rộng 40 mét, lối
lên động ở phía đông nam núi. Phía tây bắc cũng có cửa động nhưng không có lối
lên xuống. Trong động có nhiều nhũ đá đẹp, có lối lên trời, có lối xuống
"Âm phủ", bởi từ giữa động có khoảng trống cao hun hút lên đến đỉnh
núi lộ thiên, lại có hố sâu thẳm đên chân núi, tạo ra âm dương đối đãi, cân bằng.
Có lẽ, chính vì vậy người xưa đã biến động thành chùa Kỳ Lân, trong
"Chùa" có xây bệ và đặt các tượng Phật.
Chùa Hang (còn được gọi là chùa Kỳ Lân cũ) không rõ năm xây
dựng chùa, nhưng căn cứ vào 02 tấm bia được dựng vào niên hiệu triều Mạc
(1527-1582) gồm: 01 tấm bia tạo năm Ất Sửu niên hiệu Thuần Phúc 1(1562); 01 tấm
bia tạo năm Ất Sửu niên hiệu Thuần Phúc 4(1565) thông tin cho biết “Vốn ngôi
chùa Hang ở thôn Vân Hà là chốn danh lam có từ cổ xưa. Gần đây dân thôn đứng ra
lo liệu tu sửa lại”; Cũng nhờ nội dung tấm bia trùng tu của triều Mạc trong
chùa, càng khẳng định ngôi chùa trước vốn được dựng trong động “Chùa Kỳ Lân
trên núi Đại Hữu” và đã hiện diện từ trước những năm 1562, tức là ngôi chùa ít
nhất đã có gần 500 năm tồn tại.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chùa đã bị Pháp đốt và
đã được nhân dân xây dựng lại, đến thời kỳ chiến tranh chống đế quốc Mỹ, hang Kỳ
Lân đã được Nhà nước sử dụng làm Đài phát tín 2 (phát thanh sang Lào và
Campuchia), năm 1972, khi bị Mỹ đánh bom Đài Tiếng nói Việt Nam mất sóng 9
phút, thì được tiếp sóng của Đài phát tín từ chùa Hang. Đây là nơi ghi dấu lịch
sử đặc sắc của nhân dân Gia Phương nói riêng và của huyện Gia Viễn nói chung.
Hiện có một bài thơ “Thất ngôn bát cú” quốc ngữ khuyết danh
hiện còn treo trong chùa (thời điểm xuất hiện bài thơ vào khoảng cuối thế ký
XIX đầu thế kỷ XX) ca ngợi cảnh chùa cùng cảnh vật huyền ảo:
Kỳ Lân tiên cảnh chính là đây
Phật tích tăng quy ở chốn này
Tả có chùa tiên trong động đá
Hữu kìa Lăng tổ giữa rừng cây,
Trước cửa từ bi rừng với núi
Trên tòa cực lạc gió cùng mây
Khen cho tạo hóa dày công đắp
Ví cảnh Bồng Lai cũng thế này.
Vào năm Canh Ngọ (1930), triều Bảo Đại năm thứ 5, Hòa thượng
Thích Thanh Nghĩa (Tổ đệ tứ chùa Đồng Đắc) đã khôi phục và trùng tu lại ngôi
chùa Kỳ Lân.
Đến năm 1940, Hòa thượng Thích Đức Nhuận kế tiếp ngôi vị trụ
trì chùa Kỳ Lân. Hòa thượng Thích Đức Nhuận, pháp hiệu Thanh Thiệu, pháp danh Đức
Huy, thế danh Phạm Đức Hạp, sinh năm Đinh Dậu (1897), tại thôn Quần Phương, xã
Hải Phương, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định (nay là tỉnh Nam Định). Năm 1912
(Nhâm Tý), ngài xin phép song thân xuất gia đầu Phật.
Ban đầu, ngài cầu pháp với sư Tổ Thích Thanh Nghĩa (thuộc
dòng Tào Động, chùa Quảng Bá, Hà Nội), trụ trì chùa Đồng Đắc, xã Đồng Hướng,
huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Sau khi thế phát quy y, ngài được nghiệp sư gửi
đến chùa Thanh Nộn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, học đạo với sư Tổ Thích Thanh
Ninh.
Năm 20 tuổi (1917), ngài được Tôn sư cho thụ giới Cụ túc tại
chùa Phúc Nhạc (Già Lê tự), xã Khánh Nhạc, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh
Bình. Năm 42 tuổi, ngài đã phát tâm thụ giới Bồ tát, do sư Tổ Thích Doãn Hài,
viện chủ chùa Bảo Khám - Tế Xuyên xã Đức Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam chứng
đàn.
Ngay khi đảm nhận ngôi vị trụ trì chùa Kỳ Lân, Hòa thượng
Thích Đức Nhuận đã rất quan tâm đến việc tôn tạo lại ngôi chùa và đặc biệt là
việc đào tạo tăng tài, tổ chức Giáo hội. Ngài đã thành lập 2 trường Phật học: Một
ở chùa Đồng Đắc (xã Đồng Hướng, huyện Kim Sơn) và một ở chùa Kỳ Lân (xã Gia
Phương, huyện Gia Viễn). Trường Phật học do Ngài mở, giảng dạy tại chùa Kỳ Lân
đã góp phần quan trọng trong việc đào tạo Tăng tài cho Phật giáo Ninh Bình.
Tuy nhiên, vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống
Pháp, với khẩu hiệu “Tất cả cho kháng chiến” các Phật học đường do Thượng tọa
Thích Đức Nhuận mở ở chùa Đồng Đắc, huyện Kim Sơn và ở chùa Kỳ Lân, huyện Gia
Viễn, tỉnh Ninh Bình đều ngưng hoạt động. Thượng tọạ đi tới các chùa vùng
Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam vận động Tăng ni Phật tử ủng hộ và tham gia kháng
chiến.
Kế đăng ngài là Hòa thượng Thích Trí Dũng - sư đệ của Hòa
thượng Thích Đức Nhuận. Sau Cách mạng tháng Tám và những năm đầu của cuộc kháng
chiến chống Pháp, chùa Kỳ Lân nhiều lần bị giặc Pháp tàn phá, không còn đảm bảo
cho việc tu hành và hoằng pháp của chư Tăng, Hòa thượng Thích Trí Dũng đã vào Sài
Gòn và khai sáng ra ngôi chùa Nam Thiên Nhất Trụ tại quận Thủ Đức.
Các ban thờ trong Tiền đường chùa Kỳ Lân
Phủ thờ Tam tòa Thánh Mẫu
Chân núi Kỳ Lân, bên cạnh khu Lăng phát tích vua Đinh là
chùa Kỳ Lân mới, nằm dưới chùa Hang, trước mặt là Hồ Đại Hoàng tạo nên một quần
thể thống nhất, uy nghiêm. Chùa được xây dựng từ lâu và qua nhiều lần trùng tu,
năm 2022, hoàn thiện khang trang. Chùa có kiến trúc 2 tầng, tám mái, lợp ngói vảy.
Phía ngoài hiên có treo quả chuông bằng đồng được trang trí bằng các họa tiết rồng,
mây, phượng… có tượng đức Phật đang ngồi thiền, tay phải cầm bông hoa sen, tay
trái đặt viên ngọc, bên tay phải từ ngoài vào có ban thờ tượng Phật bà Quan Âm
tay cầm cành liễu, bên tay trái có ban thờ tượng Địa Tạng Vương Bồ tát.
Nơi đây là trụ sở của Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam
huyện Gia Viễn, là nơi mở các lớp học giáo lý cho các phật tử vào mỗi dịp cuối
tuần. Hàng năm cứ đến ngày 26, 27 tháng 9 âm lịch, tại núi chùa Kỳ Lân đều cử
hành các khóa lễ và lễ húy kị theo nghi thức thành kính, tôn nghiêm.
Cũng vào dịp này, nhân dân và Phật tử khắp nơi đổ về như trẩy
hội để tham dự khóa lễ tưởng niệm chư vị tiền bối, lịch đại Tổ sư đã có công tạo
dựng nên ngôi chùa Kỳ Lân linh thiêng huyền bí.
Quần thể Lăng phát
tích vua Đinh Tiên Hoàng và chùa Kỳ Lân là một trong những di tích lịch sử gắn
liền với truyền thuyết vua Đinh Tiên Hoàng, việc bảo tồn, lưu giữ các di tích lịch
sử, các truyền thuyết của những người có công lập quốc góp phần giáo dục thế hệ
trẻ phát huy truyền thống gìn giữ bảo vệ các di sản văn hóa vật thể và phi vật
thể của địa phương.
Tư liệu Ảnh: Google/ Chùa Kỳ Lân
Nguồn: Trang thông tin điện tử huyện Gia Viễn