• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
Văn hóaKiến trúc, mỹ thuật
  • UKEnglish

Kiến trúc, mỹ thuật

Di tích kiến trúc nghệ thuật tháp Bình Sơn

Tháp Bình Sơn (Tháp Then, Tháp chùa Then, Tháp chùa Vĩnh Khánh) thuộc thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc; là một kiến trúc Phật giáo mang dấu ấn của một giai đoạn khá dài (khoảng từ thế kỷ XIV tới XVI).

Tháp Bình Sơn - Chùa Vĩnh Khánh toạ lạc trên một gò đất cao và rộng rãi, diện tích khu vực khoanh vùng bảo vệ là 17.200m2, bao gồm: Tháp Bình Sơn, tòa Tam bảo cũ, Tam bảo mới, giếng mực, nhà khách, hồ sen, cổng, các công trình phụ trợ.

Tháp Bình Sơn, còn gọi là Tháp chùa Vĩnh Khánh hay Tháp Then, là một ngôi tháp cổ, tương truyền nguyên thủy có 13 tầng tuy hiện nay chỉ còn lại 11 tầng. Tháp được xây dựng từ thời Trần, nằm ở trong khuôn viên chùa Vĩnh Khánh (chùa Then) thuộc thôn Bình Sơn, thị trấn Tam Sơn huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.

Là ngọn tháp tiêu biểu cho kiến trúc chùa tháp thời Lý - Trần ở Việt Nam và là ngọn tháp đất nung đời Trần cao nhất còn lại đến ngày nay, tháp Bình Sơn với hình khối thanh thoát, đường nét mềm mại, trang trí phong phú điêu luyện, là di tích lịch sử và di tích nghệ thuật có giá trị cao trên lãnh thổ Việt Nam. Tháp Bình Sơn đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt còn lại cuối cùng từ thời Lý- Trần vào tháng 3/2016.

1. Tháp Bình Sơn

Đặc điểm kiến trúc

Tháp Bình Sơn tương truyền có 13 tầng, theo các cụ cao niên địa phương kể lại thì trên nóc tháp còn có một hình khối búp hoa sen chưa nở bằng đất nung tạo cho tháp một dáng vẻ thanh thoát vươn cao. Tháp hiện chỉ còn 11 tầng tháp và 1 tầng bệ vì phần chóp của tháp đã bị vỡ, có chiều cao đo được 16,5 mét.

Tháp cấu tạo với bình đồ hình vuông nhỏ dần về phía ngọn với cạnh của tầng dưới cùng là 4,45 mét, cạnh của tầng thứ 11 là 1,55 mét. Toàn bộ phần còn lại của tháp, căn cứ vào thống kê phân loại trong tiến trình tháo dỡ phục dựng, cho thấy tháp được xây dựng bằng 13.200 viên gạch nung, gồm hai loại trong đó có một loại hình vuông kích thước là 0,22m × 0,22m, một loại hình chữ nhật kích thước 0,45m × 0,22m.

Trong lòng tháp là một khoảng rỗng nhỏ chạy suốt chân tháp lên đến ngọn. Thân của tháp Bình Sơn được cấu trúc bằng hai lớp gạch: gạch khẩu chịu lực có nhiều kích cỡ để trơn được sử dụng xây bệ, xây bên trong tháp và giật cấp làm mái phân tầng. Phần lớn các viên gạch khẩu được cấu trúc có mộng chốt, tạo dáng khớp nhau theo từng lớp, từng tầng rồi mới nung rắn chắc để xây, bảo đảm liên kết chặt và khả năng chịu lực lớn.

Bên ngoài, xung quanh tháp được ốp một lớp gạch vuông, mỗi cạnh dài 0,46m, phủ kín thân tháp. Mặt ngoài của gạch ốp này đều có trang trí hoa văn rất phong phú. Những kiểu cách họa tiết phong phú tùy theo vị trí mỗi tầng mà thiết kế đồ án trang trí từng mặt tháp, tạo dáng từng viên gạch hoa văn hoàn chỉnh rồi mới đánh dấu gạch theo vị trí trước khi đem nung. Các nghệ nhân khi xây dựng tháp đã dựa vào tầm nhìn của người chiêm ngưỡng mà trang trí hoa văn tinh xảo, tỉ mỉ hay đơn giản.

Đẹp nhất là từ bệ tháp đến hết tầng 2, có chiều cao dưới 6 mét, là khoảng cách mắt thường có thể cảm nhận dễ dàng. Ở hai tầng này có họa tiết trang trí kỹ lưỡng, phức tạp mà nổi bật nhất là những hàng hoa cúc, cánh sen, lá đề, hoa mặt nhẵn, rồng chạm nổi, cùng mô típ "sư tử hí cầu" v.v. Những tầng trên trang trí thưa dần và hình dáng cũng đơn giản hơn như hoa chanh, lá sòi (hoa dấu phảy) v.v. Các viên gạch trang trí đều có chân và sau khi xếp vào vị trí cố định thì liên kết thành một khối.

Từ tầng thứ ba trở lên, trang trí vẫn còn, nhưng càng lên cao, chiều ngang mặt tháp càng bị thu hẹp, thì trang trí cũng giảm dần. Về chất liệu, tháp Bình Sơn được xây dựng bằng ba loại gạch:

- Loại thứ nhất là “gạch khẩu”: có nhiều cỡ, hình chữ nhật, để trơn, dầy mỏng không nhất loạt như nhau. Những gạch này thường được dùng để xây chân bệ, “gờ chỉ” lộ ra ngoài, hoặc được chèn lên mấu các viên gạch ốp ở phía trong.

- Loại gạch thứ hai hình hộp, có trang trí, thường được dùng ở chân bệ và các đường diềm, mặt lộ ra ngoài lớn hơn mặt “gạch khẩu”. Loại gạch này được chế tác công phu, rõ ràng có gia công trong nhiều khâu.

- Loại thứ ba cũng là gạch trang trí, nhưng có phần khác loại thứ hai về hình dáng cũng như công dụng. Loại này thường được dùng để xây dựng các tầng tháp cao.

2. Toà Tam bảo cũ: được đại trùng tu năm 1976 lùi lại 20m so với vị trí cũ, dạng chữ Đinh, có diện tích 131,5 m2, bao gồm Tiền đường 5 gian (kích thước  7,55m x 13,12m), Hậu cung 3 gian (5,74m x 7,6m). Đặc biệt công trình có 2 cột đồng trụ phía trước, đua ra 6m, tạo như tay ngai. Nền lát gạch đỏ kích thước 250 x 250cm, cao so với sân 0,32m, đến chân tầu mái cao 1,87m, đến đáy thượng lương tiền đường cao 4,62m và đến đáy thượng lương hậu cung cao 4,53m. Hệ thống tượng thờ tại đây chủ yếu được làm bằng đất phủ sơn, niên đại cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một vài tượng có niên đại thế kỷ XX.

3. Tam bảo mới: được xây dựng năm 2012, trên nền nhà tam bảo cũ, hình thức kiến trúc mang phong cách thiền viện. Mặt bằng hình chữ nhật kích thước 13,85m x 22,85m, không gian lớn và trống trải. Kết cấu công trình toàn bộ bằng bê tông cốt thép. Mái được làm thành nhiều lớp chia công trình thành dạng chồng diêm, mái dán ngói ống.

4. Giếng Mực: tương truyền vị trí này xưa kia là đế của một ngôi tháp cổ màu xanh, khi tháp cổ này biến mất để lại một hố sâu hình giếng tròn. Trải qua biến cố của thời gian, hiện nay giếng đã bị biến dạng, không tròn như xưa.

5. Nhà khách: mới được xây dựng năm 2012, diện tích 283,5m2 có mặt bằng chữ nhất, kiến trúc đao mái, phù hợp với kiến trúc cổ truyền thống.

6. Hồ sen: nằm ở vườn trước tháp Bình Sơn, hiện đang trồng sen, nhưng chưa kè bờ nên bị sạt lở nghiêm trọng.

7. Cổng vào khu di tích:  gồm 4 cột trụ xây gạch, gắn 2 cánh cổng sắt ở lối chính giữa, hai lối bên rào tạm bằng cây, tre mang tính chất là cổng bảo vệ.

 8. Một số trang trí của Tháp Bình Sơn

Sư tử hý cầu: một trong những đồ án gây thắc mắc cho các nhà nghiên cứu là "sư tử hý cầu”, vì nó khác xa những con "sấu đớp ngọc" đội toà sen ở các bệ Phật thời Lý. Đồ án này phổ biến từ thế kỷ XVII và càng về sau nó càng đa dạng.

Rồng: có sừng, uốn trong “ổ”, đầu quay vào giữa vòng tròn, thân không cuộn khúc mà lượn thành hình sin, do đó không "thắt túi", chân đạp ra ngoài, hoặc vắt qua thân để đạp ra ngoài, sống lưng hình “răng cưa” một chân trước đưa lên nắm "tóc"...  Một số chi tiết vừa nêu phảng phất bóng dáng những con rồng cuối Trần, nhưng các chi tiết khác lại không cho phép quy con rồng trên tháp Bình Sơn vào một kiểu thức nhất định nào cả. Điều quan trọng hơn là rồng Bình Sơn thường đưa chân trước lên nắm tóc, trong một tư thế ngộ nghĩnh, rất nghịch ngợm, do đó khá "dân gian": trong trường hợp này, nó đã mang phong cách của mô - típ rồng vuốt râu thời hậu Lê. Qua so sánh kiểu thức, chưa có lý do gì để xếp Rồng Bình Sơn vào cùng một thời với những con rồng tiêu biểu mà chúng ta đã biết chắc chắn là ra đời dưới triều Trần.

Lá đề: là một loại hình tương đối phổ biến, với những hoạ tiết hàm nhiều ý nghĩa. "Lá đề” Bình Sơn thuộc nhiều kiểu thức, nhưng kiểu nào cũng đơn giản, không thực trau chuốt như "lá đề" thời Lý. Trong một số trường hợp, các hình là những bông hoa nhỏ, hoạt và mềm mại, mang tinh thần trang trí kế thừa từ gốm Lý. Nhưng khá nhiều "lá đề" lại được trang trí bằng "sừng nhọn" và "u tròn" là những họa tiết đáng lưu ý. Trên thực địa, chúng ta đã gặp khá nhiều "sừng nhọn" và "u tròn" trang trí cho những di tích và di vật có niên đại khá chính xác, ví như Chùa Ngo (thế kỷ XVI) và chùa Bút Tháp có niên đại cụ thể (1647).

Hoa cúc dây: đã có từ thời Lý dưới dạng uốn thành khung tròn, lòng khung chứa gọn các đồ án trang trí khác. Thời Trần kế thừa bố cục ô tròn đó. Ở Bình Sơn, mô - típ này đã bị ước lược đi: đường sống chính của “cúc dây" chỉ là một hình "sin" lượn nhẹ, và hình hoạ cũng không còn nữa. Nó không khác mấy so với "cúc dây” trên các bia thế kỷ XVI ở Văn Miếu (Hà Nội) và "cúc đây" trên bia chùa Bút Tháp (thế kỷ XVII).

Đấu ba chạc (con sơn): một điểm đáng quan tâm là đấu này đã thấy xuất hiện từ thời Lý (Tháp Chương Sơn, Nam Định) chúng càng phổ biến hơn ở dưới thời Mạc (Đình Tây Đằng, Ba Vì, Hà Nội).

 
 
 
 
 
 
 

Tháp Bình Sơn có nhiều nét độc đáo cả về kiến trúc nghệ thuật, mỹ thuật, kỹ thuật xây dựng. Tháp Bình Sơn không những có giá trị về kiến trúc nghệ thuật, mà còn có giá trị mỹ thuật cao được gọi là “Hòn ngọc báu của kho tàng dân tộc”, trên các hòn gạch có rất nhiều loại hoa văn trang trí, chỗ hình tròn, chỗ lượn vòng tròn, chỗ sâu, nông, chỗ đậm… chứng tỏ bàn tay người thợ vô cùng điêu luyện. Tháp Bình Sơn là một công trình có kiến trúc độc đáo, theo đánh giá của người Pháp đây là một cây tháp đẹp nhất xứ Bắc Kỳ.

Truyền thuyết

Có nhiều truyền thuyết liên quan đến tháp Bình Sơn, cho thấy vị trí đặc biệt của tháp trong văn hóa tâm linh và ý thức cộng đồng của người dân bản địa. Tất cả những truyền thuyết này đều lưu truyền trong dân gian, như truyền thuyết về xuất xứ cây tháp, vốn là một tháp lớn dựng trong vườn tháp ở giữa cánh đồng Nẫu xã Tứ Yên, Lập Thạch, sau một đêm mưa bão thì nhảy về vị trí hiện nay; truyền thuyết về chiếc giếng bên cạnh tháp với con vịt bằng vàng, là dấu tích nền móng một cây tháp khác có màu xanh bên tháp Bình Sơn, đã bay lên trời; truyền thuyết về ông Ngụy Đồ Chiêm thủ lĩnh địa phương, con một người đàn bà bán quán nước chân tháp, đã ôm kiếm chạy vào cây tháp rồi biến mất khi bị quân triều đình đến đánh dẹp v.v.

Phục dựng di tích lịch sử-văn hóa

Sau những trận lụt liên miên trước thập niên 1960, Tháp Bình Sơn có nguy cơ bị sụp đổ hoàn toàn khi bị nước lũ cuốn lở mảnh chân đế phía bắc và phía tây, chỏm tháp bị vỡ một mái. Năm 1969 nước ngập chân móng đến 60 cm buộc Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Vĩnh Phú phải dựng một khung sắt và dùng vành đai thép đề ghì chống cho tháp. Nhu cầu phục dựng tháp cấp thiết được đặt ra trong bối cảnh những năm chiến tranh lúc miền Bắc vẫn đang trong giai đoạn quyết liệt.

Tháng 5, 1972 dưới sự chỉ đạo của Sở văn hóa, xưởng phục chế tháp Bình Sơn được lập tại thị trấn Hương Canh, là sự hợp tác của những tổ chức như Xưởng phục chế di tích của Bộ Văn hóa, Trường Cao đẳng Mỹ thuật Công nghiệp Trung ương, Hợp tác xã cao cấp ốm sành Hương Canh, Sở Văn hóa Thông tin Vĩnh Phú, cùng nhiều kỹ thuật viên, các chuyên viên về sành gốm, các nghệ nhân, cán bộ chụp ảnh, cán bộ đồ họa và in thạch cao nhằm đảm bảo tháp được dựng đúng từng chi tiết, đảm bảo phục chế đúng nguyên tác.

Nhân lực và biện pháp thực hiện đều làm theo lối thủ công với từng hòn gạch được tháo dỡ, đánh dấu từng cạnh, từng mặt, từng tầng theo các hướng, đổ khuôn thạch cao rồi xếp vào từng gian nhà theo đúng thứ tự đã ghi chép, chụp ảnh từ trước.

Các kỹ thuật viên trường Cao đẳng Mỹ thuật Công nghiệp dựng lại hình những viên gạch bằng thạch cao lành lặn và các nghệ nhân Hương Canh chỉ việc theo mẫu những viên thạch cao, làm thành những viên gạch nung có mộng mang cá, có họa tiết đúng như bản gốc và phiên bản.

Việc phục chế từng viên gạch với kích thước, đường nét hoàn toàn khác nhau, đòi hỏi người tạo tác phải tỉ mỉ, kiên trì, nhẫn nại. Người ta dùng đất đỏ lấy ở gò Vườn Sui để chống co ngót, dùng đất sét xanh ở Đầm Mát để có sự kết dính và mịn mặt, dùng đất Móng Trâu ở Quất Lưu làm nguyên liệu chính, tạo thành một hợp chất chế tác gạch hoa văn của thế kỷ 13, bổ sung cho những phần bị vỡ nát của tháp Bình Sơn.

Công nhân phải làm tới 100 viên gạch phơi mới có một viên đúng mẫu và sau khi nung hầu như cứ 48 viên mẫu mới được một viên gạch đạt quy cách. Việc làm gạch để thay thế và bổ sung những chỗ bị vỡ trên tháp bị khuyết, bị lũ quét, phải kéo dài đến hai năm. Khi lắp lại tháp, người ta phải căn cứ vào khuôn in thạch cao, đồ họa và ảnh chụp ban đầu, theo số mục đánh dấu trên từng viên gạch và thứ tự của từng kho dựng gạch.

Hiện nay, Lễ hội tại Khu di tích Tháp Bình Sơn - Chùa Vĩnh Khánh được địa phương tổ chức vào ngày 15 tháng Giêng hàng năm, gọi là “Lễ hội chùa tháp”, bao gồm những nghi thức: rước kiệu, lễ cầu nguyện cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an và những chương trình văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, trò chơi dân gian (cờ tướng, cờ người, chọi gà...)

Với giá trị tiêu biểu, di tích di tích kiến trúc nghệ thuật Tháp Bình Sơn (huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2367/QĐ-TTg ngày 23/12/2015 )./.

Khắc Đoài

Theo Hồ sơ tư liệu Cục Di sản văn hóa

Trở về đầu trang
   Tháp Bình Sơn thị trấn Tam Sơn huyện Sông Lô tỉnh Vĩnh Phúc
0   Tổng số:

Các tin khác

  • Đình, nghè Mai Động, thờ phụng Đô úy Tam Trinh triều Nhị vua Hai Bà Trưng
  • Đình Tây Đằng – Bảo tàng nghệ thuật kiến trúc thế kỷ 16
  • Quảng Nam: Làng Pơr’ning làm du lịch xanh bền vững
  • Khánh Hòa: Giữ gìn vẻ đẹp cho các di tích
  • Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam tổ chức Triển lãm “Hồ Chí Minh trong nghệ thuật tạo hình”
  • Quảng Ninh: Chú trọng bảo tồn, phát huy giá trị di tích, danh thắng
  • Làng Nôm - Hưng Yên: Nơi hồn quê lắng đọng, nơi lịch sử vẹn nguyên
  • Chùa Bổ Đà - Danh lam cổ tự nổi tiếng vùng Kinh Bắc
  • Cổ kính làng Ước Lễ
  • Điều chỉnh hồ sơ di sản Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Long An phát triển du lịch qua di tích lịch sử -...

    Hiện toàn tỉnh Long An có 127 di tích lịch sử - văn hóa (DTLSVH), trong đó, 22 DTLSVH cấp...

    165
  • Quảng Nam: Tây Giang hướng đến phát triển du lịch...

    Với thế mạnh điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu mát mẻ, độ che phủ rừng tự nhiên, giá trị bản...

    121
  • Hải Dương: Phường rối nước Thanh Hải được công...

    Nghệ thuật múa rối nước Thanh Hải (Thanh Hà, Hải Dương) có lịch sử hơn 300 năm.

    119
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp...

    Chùa Dàn, có tên chữ là Trí Quả tự, còn gọi là Chùa Dàn Phương Quan hay Chùa Dàn Câu là...

    113
  • Cung đường mới - động lực lớn cho phát triển du...

    Trước đây, hành trình từ thành phố Bắc Kạn đến hồ Ba Bể thường mất hơn 2 tiếng đồng hồ,...

    109

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2025 Trang thông tin du lịch