• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
Văn hóaPhong tục tập quán
  • UKEnglish

Phong tục tập quán

Thần tích đình, đền, nghè chất chứa hồn đất nước

Thần hoàng hay thành hoàng cũng được gọi là phúc thần, tức vị thần ban phúc cho dân làng, thường mỗi làng thờ một thần hoàng, thành hoàng nhưng cũng có khi một làng thờ hai, ba vị hoặc hai ba làng thờ một vị. Thần, thành hoàng có thể là nam thần hay nữ thần, tùy sự tích mỗi làng.

Từ thuở “khai thiên, lập địa” người dân trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên và giặc ngoại xâm đã xây dựng trong tâm khảm ý thức tưởng nhớ, biết ơn những vị thiên tiên, địa tiên hoặc nhân thần, có công hộ quốc an dân nên thường lập đền thờ phụng và tôn làm thần hoàng làng hoặc thành hoàng làng để ngàn năm hương khói.

Đình Lại Trì, xã Tây Sơn (Kiến Xương), di tích lịch sử văn hóa quốc gia thờ Quốc sư Dương Không Lộ với hoa văn kiến trúc rồng phượng uyển chuyển.

Thần hoàng hay thành hoàng cũng được gọi là phúc thần, tức vị thần ban phúc cho dân làng, thường mỗi làng thờ một thần hoàng, thành hoàng nhưng cũng có khi một làng thờ hai, ba vị hoặc hai ba làng thờ một vị. Thần, thành hoàng có thể là nam thần hay nữ thần, tùy sự tích mỗi làng.

Tiêu biểu trong các truyền ngôn cổ xưa về tục thờ thủy thần trên địa bàn tỉnh Thái Bình phải kể đến thần tích “Vĩnh Công Đại vương” tôn thờ tại đền Đồng Bằng, xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ.

Thần tích kể rằng: Vua Hùng thứ XVIII không có con trai nối dõi nên buồn bã, đau yếu khiến cho trăm quan triều đình lo lắng, các thế lực ngoại bang đã “hò nhau” thôn tính Lạc Việt, Hùng Duệ Vương rất lo lắng liền cho người đi mời Sơn Thánh về Kinh hiến kế phá giặc, Sơn Thánh tâu rằng: “Trời đã “đa giáng anh tài” xuống làm dân đất Việt, để mà hộ quốc cứu dân đó thôi!”.

Vua Hùng vẫn không khỏi lo lắng, Sơn Thánh thưa: “Đó là Long cung Hoàng Thái Tử đã thác sinh, đang náu ở Hoa Đào trang, bên bờ sông Vĩnh. Bệ hạ nên cử Thái Tử Long cung trấn giữ và đánh giặc tại các “giang môn, yếu hải” còn thần nguyện đích thân tiên phong cự địch tại các cánh đường bộ. Thần đồ rằng chỉ vài hôm là giặc tan”.

Duệ Vương nghe nói cả mừng, lập tức lệnh lập Đàn cầu Trời ứng trợ, tuần hương vừa tàn thì Thanh Y Tiên Ông lai giáng, mách vua cho người về Hoa Đào trang mà triệu, sẽ có dị nhân đánh tan giặc. Hùng Vương cả mừng, sai sứ giả về Hoa Đào trang (tức trang Đào Động thuộc xã An Lễ bây giờ) để truyền chỉ dụ triệu kỳ nhân dẹp giặc.

Khi sứ giả về hỏi, dân Đào thôn kể về việc Giao Long ẩn thân trong giếng cạn, sứ giả đến bên giếng xướng truyền sắc chỉ thì thấy Hoàng Xà hiện ra rồi bỗng hoá thành một chàng trai lực lưỡng, tuấn tú hơn người.

Ngài nhận chỉ dụ, nhờ sứ giả báo với Vua Hùng là sẽ triệu 2 em, tuyển 10 tướng, chiêu mộ binh sĩ trong 10 ngày, rồi xuất quân đánh giặc trên cả 8 cửa biển nước Nam, hứa sau 3 ngày là giặc tan... từ đó, ngài có tên là Vĩnh Công (trọng nhân phát tích trên sông Vĩnh) hay còn gọi là Vua Cha Bát Hải Động Đình.

Từ truyền thuyết “Vua Cha Bát Hải Động Đình” hiển linh ở trang Đào Động (hồ Động Đình, nay thuộc xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ) nhóm nghiên cứu chúng tôi khảo luận nhiều tài liệu nghiên cứu cho rằng Phật giáo du nhập vào nước ta từ thời Vua Hùng thứ XVIII, sự gặp gỡ giữa Phật giáo với tín ngưỡng nông nghiệp bản địa hình thành dòng Phật giáo dân gian với hệ thống Tứ Pháp (Thần - Phật) tồn tại bền vững.

Các vị thần có thể “đầu thai” làm con cái các gia đình phàm trần để giúp đỡ cho đất nước, nhà nào có phúc tất sẽ được hưởng. Tín ngưỡng thần linh có dấu ấn của tư tưởng Luân hồi, Ứng thân Bồ Tát của Phật giáo Đại thừa. Thủy thần thường xuất hiện dưới dạng giao long, thuồng luồng, rắn, rái cá hoặc cá chép... để cứu dân khỏi tai họa. Tín ngưỡng thờ thủy thần phản ánh tâm tư, nguyện vọng cầu an của người dân.

Theo các nghiên cứu lịch sử, để thu phục lòng người, tập trung và củng cố quyền lực, các vương triều đều rất quan tâm và chia sẻ sự cầu an nhuốm màu sắc tâm linh. Dựa vào những tư liệu khảo sát được, các nhà nghiên cứu cho rằng, lần “khảo khóa phong thần” sớm nhất được biết đến đó là của vua Lê Đại Hành, niên hiệu Thiên Phúc (980 - 988). Sau đó, các vương triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều cố gắng quy tụ và kiểm soát thế giới thần linh bằng việc phong thần, ban sắc cho các làng phụng thờ.

Theo tài liệu khảo cứu, thời nhà Lê sơ, sự tác động bởi tinh thần Nho giáo đối với tín ngưỡng thờ thần được chú trọng, “thần quyền” được thâu tóm vào tay nhà vua cùng với tiến trình tổ chức bộ máy nhà nước tập quyền cao độ về mặt thế tục. Bách thần được tập hợp, phân loại, phân cấp theo tinh thần Nho giáo chính thống. Các thứ bậc Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần, Hạ đẳng thần (Tôn thần) bắt đầu được dùng từ thời Lê trở đi.

Vua không chỉ cai trị dân chúng (thế quyền) mà còn có quyền lực đối với thần linh (thần quyền). Thần quyền được thực thi thông qua bộ máy nhà nước thế tục, là cơ cấu “Giám quản Bách thần” thuộc Bộ Lễ. Những thần linh quan trọng đối với vương triều được nhà nước nâng cấp, chăm lo cúng tế tại kinh đô và các địa phương (quốc tế).

Thần bảo hộ các làng xã được vua ban sắc phong và ra lệnh cho dân sở tại thờ cúng. Trong số các vị thần làng, vị xứng đáng nhất theo nhãn quan Nho giáo được phong làm thần Thành hoàng, thay mặt nhà vua thống lĩnh các vị thần khác trong cõi thiêng. Thần Thành hoàng làng được phong tước Vương (Đại vương) bậc Thượng đẳng thần.

Dấu vết của tục thờ thủy thần qua biểu tượng rồng được chạm khắc xung quanh và trên trán bia, trên các đại bờ của đền chùa miếu điện. Rồng biểu tượng cho tín ngướng của các cư dân canh tác lúa nước, ẩn dụ sự cầu mong mưa thuận gió hòa để phát triển sản xuất nông nghiệp. Người dân Long Hưng (nay là huyện Hưng Hà) xưa từng lưu truyền câu ca: “Nhất cao là núi Tản Viên/Nhất sâu là nước Thủy Tiên, Phú Hà”. Làng Phú Hà thuộc xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà, nơi ngã ba sông (sông Hồng, sông Luộc) có đền thờ Thủy Tiên công chúa (con vua Thủy Tề).

Thần tích kể rằng: Thuở ấy có người ở xã Ngọc Lạp, huyện Thanh Miện, phủ Hồng Châu, lộ Hải Đông (nay là Thanh Miện, Hải Dương), họ Liễu, tên Nghị, là danh sĩ. Một hôm Nghị cùng gia đồng chèo thuyền ngắm cảnh. Thuyền đến cửa Luộc (Phú Hà) bỗng nghe tiếng ngâm thơ văng vẳng, lời lẽ thảm thê, Nghị lấy làm lạ, bèn nói với bọn gia đồng đi theo rằng: “Không biết thần tiên hay ma qủy mà lại có lời lẽ thê thảm đến như vậy”.

Liễu Nghị bèn cho người dừng thuyền bên bờ sông, một mình lên bờ, chợt Nghị nhìn thấy bóng dáng thiếu nữ tuổi độ đôi tám mi xanh như liễu rủ, má thắm tựa hoa đào, Liễu Nghị chợt nghĩ “dẫu tiên nữ ở cung trăng hay phi tần nơi thượng giới, cũng không thể hơn được”.

Người con gái nhìn thấy dung mạo Liễu Nghị đoán là người tử tế, mắt ứa lệ thưa rằng: “Thiếp vốn là con gái vua cha Bát Hải Động Đình, là vợ của Kinh Xuyên (Kinh Dương Vương), chẳng ngờ thiên sứ giáng họa vô cớ, nay may gặp người tốt ở đây, dám xin người có kế sách gì cứu giải oan khiên, thiếp nguyện thề có sông núi không quên ơn nghĩa”.

Các tài liệu khảo cứu cho thấy Thái Bình là tỉnh thuộc “vùng lõi” của Đại Việt với nền “văn minh lúa nước”. Việc canh tác lúa nước thực sự phát triển khi đoàn người nguyên thủy chuyên săn bắn và hái lượm di chuyển từ núi cao xuống đồng bằng phù sa màu mỡ, vùng ven biển, sông ngòi chằng chịt.

Tín ngưỡng thần linh của cộng đồng người Việt cổ canh tác lúa nước gắn liền với đất đai, các nguồn nước và thời tiết mưa nắng, đồng thời với các công trình Phật giáo, nhiều đền, miếu thờ tự tín ngưỡng Thủy thần cũng được xây dựng trên bến sông nơi tổ chức hoạt động bơi chải và có thể đó là nơi nhà vua đến xem.

Ai một lần đến thăm làng Lại Trì, xã Vũ Tây (nay là xã Tây Sơn), huyện Kiến Xương hẳn nhớ câu ca: “Nhất vui là hội Lại Trì/Đêm thì xem hát, ngày thì xem bơi”. Hội đình Lại Trì không chỉ có hát, có bơi chải mà còn có các trò chơi dân gian đặc sắc làm nên “phong vị” của làng quê...

Quang Viện

Nguồn: Báo Thái Bình

Trở về đầu trang
   Thành hoàng làng đền làng Lại Trì xã Vũ Tây Tây Sơn huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình
0   Tổng số:

Các tin khác

  • Quảng Ninh: Hạ Long quan tâm tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật
  • Quảng Nam: Làng Pơr’ning làm du lịch xanh bền vững
  • Bắc Ninh phát triển du lịch trong thời kỳ mới
  • Lễ hội đền Đồng Cổ 2025: Nét đẹp văn hóa tâm linh xứ Thanh
  • Hội diều làng Bá Dương Nội đón nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
  • Hà Nội: Đặc sắc Lễ hội bơi Đăm truyền thống
  • Khánh Hòa: Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của đồng bào để phát triển du lịch
  • Hà Nội: Quận Cầu Giấy khai mạc lễ hội truyền thống Đình Mai Dịch 2025
  • Cụm di tích Từ Lương Xâm - Căn cứ bản doanh của Ngô Quyền được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Long An phát triển du lịch qua di tích lịch sử - văn hóa

    165
  • Quảng Nam: Tây Giang hướng đến phát triển du lịch xanh

    121
  • Hải Dương: Phường rối nước Thanh Hải được công nhận là điểm du lịch

    119
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật

    113
  • Cung đường mới - động lực lớn cho phát triển du lịch hồ Ba Bể (Bắc Kạn)

    109

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2025 Trang thông tin du lịch