• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
Văn hóaTín ngưỡng - Tâm linh
  • UKEnglish

Tín ngưỡng - Tâm linh

Chùa Thượng Đồng, ngôi chùa cổ quận Long Biên thành phố Hà Nội

Chùa Thượng Đồng hiện ở tổ dân phố số 9, phường Phúc Lợi, quận Long Biên, thành phố Hà Nội (trước đây là thôn Thượng Đồng, xã Hội Xá, huyện Gia Lâm). Chùa còn có tên chữ là Hiển Ưng tự.

Chùa Thượng Đồng - Hiển Ứng tự

Nội dung 3 tấm bia cổ rất quý có niên đại Khánh Đức năm thứ 5 (1653), Chính Hoà năm thứ 14 (1693) và Chính Hoà năm thứ 17 (1696) hiện còn lưu giữ tại chùa đã cho chúng ta biết trước đây chùa Thượng Đồng là một ngôi chùa cổ, có quy mô bề thế, to đẹp ở trong vùng, được ra đời vào đầu thế kỷ XVII. Qua những thăng trầm của lịch sử mà kiến trúc gốc của chùa đã bị mai một và đã được tu sửa nhiều lần.

Chùa Thượng Đồng hiện nay được làm quay hướng đông nam với bố cục mặt bằng gồm: gác chuông, sân, Tiền đường, Thượng điện, phía sau là nhà Tổ (mới làm).

Tuy không bị di chuyển từ nơi khác tới, nhưng hướng chùa hiện nay không còn theo hướng truyền thống nữa, có lẽ kiến trúc này bị đổi hướng vào khoảng đầu thế kỷ XX và hầu như tất cả các quy chuẩn cơ bản của nó đều đã bị suy lạc.

Chùa không nhìn về hướng Nam, có nghĩa ít quan tâm tới " Bát Nhã" ( Trí tuệ) một trong những cứu cánh tối thượng của nhà Phật. Mặt khác, cũng không theo hướng Tây, một hướng cổ truyền của tổ tiên là mong thần linh luôn yên vị để vì chúng sinh mà phù trợ.

Ngoài các hướng trên thì phần nhiều các hướng khác đã lệ thuộc vào tư duy thực dụng, tuỳ tiện ( phần nhiều ở đô thị, lệ thuộc vào trục giao thông, hoặc nhận thức cổ truyền đã bị tàn phai) mà quên mất tư duy liên tưởng đầy giá trị tâm linh có phần mang nét trừu tượng dân dã.

Người ta thường nghĩ rằng, trong thế giới tâm linh, được đúc kết biết bao đời, thì, sự thiếu chuẩn mực sẽ là cửa ngõ cho mê tín dị đoan xâm nhập. Chẳng thế mà, chùa này nay không có tam quan, một phương đình cao có một tầng mái xây trước mặt chùa chỉ mang tư cách là nơi để treo chuông, ngoài ra không còn một ý nghĩa triết học cổ truyền nào khác.

Chùa chính không còn đầy đủ đá bó vỉa để phân định thế giới thiêng liêng và trần tục. Tuy nhiên, đối với hệ thống tượng thờ dù cho có niên đại không sớm, nhưng phần nhiều đều có một giá trị nghệ thuật nhất định.

- Bộ tượng Đức Ông đầy vẻ tự nhiên mà vẫn oai phong, các tượng này như mang một phong cách riêng có nhiều chi tiết không giống ở nơi khác. Đức Ông, vẫn ngồi trên bệ, buông chân song song, nhưng mũ của ngài không có cánh chuồn chéo lên hoặc ngang, mà lại tạo thành hai giải mũ ngắn lửng hơi vênh ra ở sau tai, cả hai tay tì trên gối, nhưng tay phải lại cầm hốt để biểu hiện uy quyền tối thượng với thế gian.

Hai tượng thị giả cũng có bộ mặt bầu bĩnh hiền lành như Đức Ông. Thế ngồi, một chân buông, một chân tụt khỏi giầy để co chống trên bệ ngồi, vị bên phải lại vén tay áo trái tới tận vai. Ở đây, người ta đã ít quan tâm tới tướng mạo của khuôn mặt và những động tác như đã nêu trên, khiến bộ tượng trở nên tự nhiên và gần gũi, như có nét bình dân hơn.

Từ đây kẻ hành hương chuyển qua gian giữa để lễ Phật. Do thờ Phật theo lối bình dân ( Thế gian trụ trì Phật Pháp), người Phật tử cần ngửng mặt lên để chiêm ngưỡng Thánh tượng của chư Phật và chư vị Bồ Tát.

Trên cao nhất là bộ tượng Tam thế Thường trụ diệu pháp thân ( Cũng gọi là Tam thế Tam thiên Phật) tượng trưng cho 3000 vị Phật của ba thời Quá khứ ( Tương ứng Trang nghiêm kiếp), Hiện tại ( Tương ứng Hiền kiếp) và Vị lai ( Tương ứng Tinh tú kiếp)...

Đây là một bộ tượng được tạo tác khá kỹ, khá chuẩn mực. Tượng ngồi theo lối Kiết già hàng ma, đã ngầm bảo cho chúng ta biết, đương thời khi làm lại chùa ít nhất dân chúng nơi đây đã bị nhiều điều ngang trái, có khi là tai hoạ ở lĩnh vực tinh thần hay cuộc sống.

Ở lĩnh vực tạo hình, ba pho tượng này cùng một phong cách, đầu tượng có tóc kết thành nhiều u xoắn nổi (Tượng cho các chữ Thánh: Vạn tự, Đức tự, Cát tường tự), nhục kháo không rõ nhưng lại lộ rõ tướng Vô kiến đỉnh ( Sahasrâra) một biểu tượng cao hơn hết về trí tuệ của đức Phật.

Bộ mặt bầu bĩnh phúc hậu với đầy đủ quý tướng của kiếp tu. Đặc biệt các tượng đều có nụ cười hàm tiếu mang ý nghĩa cảm thông và cứu độ chúng sinh. Áo cà sa ( Nhẫn nhục y, Thanh y, Tĩnh y...) và la bào đã tạo nhiều nếp, với hình thức kế thừa gần gũi phong cách của tượng Phật có niên đại vào thế kỷ XVIII. Tay tượng kết ấn Tam Muội ( Samâchi, Giới định, Pháp giới định...) Tất cả đã hội lại thành một chỉnh thể ở mặt tinh thần của nhà Phật.

- Hàng thứ hai là bộ Di Đà Tam Tôn, cũng gọi " Di Đà Tiếp Dẫn" mang ý nghĩa: dẫn dắt chúng sinh có Phật quả về miền Tĩnh Thổ. Bộ tượng này có ba pho gồm: ở giữa A Di Đà Phật với 13 đại danh tính, trong đó có 2 danh tính thường được nhắc tới: Vô Lượng Thọ Phật và Vô Lượng Quang Phật, trong trường hợp này Ngài còn là hiện thân của Đại Trí, Đại Tuệ, Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Xả... Bên trái Ngài có Quan Thế Âm Bồ Tát, hiện thân của Từ, Bi, Hy, Xả, và bên phải của Ngài là Đại Thế Chí Bồ Tát, hiện thân của Trí, Tuệ, Hùng, Lực.

Như vậy rõ ràng, trong dạng thức trên, A Di Đà là hiện thân dung hội đặc tính của cả Quan Âm và Thế Trí, hoặc ngược lại... Và, tất nhiên bộ ba này đã ở miền Cực Lạc/Niết Bàn nên bộ mặt và tay chân đều được thếp vàng ròng.

Ở mặt tạo hình, tượng A Di Đà Phật của chùa này gần như đồng nhất với tượng Tam Thế Phật với kích thước lớn hơn, ngực có chữ Vạn theo chiều quay của lửa Tam Muội, chỉ một chi tiết khác là trong ấn Thiền Định đã để bàn tay phải trên bàn tay trái, còn các tượng Tam Thế thì ngược lại.

Hai tượng Quan Âm và Thế Chí có phần phức tạp hơn về nghệ thuật chạm khắc, như ở Thiên/Bảo quan được làm theo phong cách của thế kỷ XVII – XVIII với nhiều chi tiết gồ ghề.

Trên đó, ở chính giữa mặt đứng Thiên Quan của Thế Trí được chạm nổi lọ nước Cam Lồ trong lòng lá đề, còn ở Quan Âm là đấng Từ Phụ ( A Di Đà). Mặt khác nếp áo của các Bồ Tát này nhiều khi nổi lên thành những đường gân lớn, gấu La Bào và mũi cánh sen vuốt vênh ra không ấm áp như ở tượng A Di Đà. Điều này có thể cho thấy, hai pho này đã không cùng một bộ gốc với tượng A Di Đà. Có lẽ cả hai đã được làm muộn hơn. Một điểm đáng quan tâm nữa là hiện hai pho này đang ngồi nhầm chỗ của nhau!

- Ở hàng thứ ba là bộ Hoa Nghiêm Tam Thánh với Thích Ca giơ bông sen lên để nhắc nhở chúng sinh, vào chùa là để " Tự tính trạm viên" (Tự mình phải tìm lấy Phật tâm trong sáng tròn đầy của mình) để đi tới giác ngộ và giải thoát.

Tượng có bộ mặt khá chuẩn, nhưng tai khá thấp mang cùng một phong cách với tượng Quan Âm và Thế Chí ở hàng trên, nếp áo cong cường điệu và rõ ràng không được đẹp.

Hai Bồ Tát Văn Thù (Tượng trưng cho Chân Trí của nhà Phật) và Phổ Hiền (Tượng trưng cho Chân Lý tuyệt đối của nhà Phật) đã được tạo tác với phong cách khác gần gũi và ấm áp, nhiều chất dân gian... Cả hai tượng đều có khuôn mặt nữ, voi và sư tử đều mang nhiều nét tượng trưng. Tuy vậy cả bộ tượng vẫn nói lên tinh thần về triết học của nhà Phật là: Âm và Dương, Phàm và Thánh, Lý và Trí... cùng một thể một cội nguồn.

- Về hàng thứ tư là bộ Ngọc Hoàng – Nam Tào – Bắc Đẩu, cả ba pho đều có kích thước gần như tương đồng, chỉ pho giữa được đội mũ bình thiên và cầm hốt quyền uy. Hai pho bên không cầm sách và bút như các bộ tượng thông thường cùng loại.

Cả ba đều cùng ngồi trên bệ không ngai, chân buông thẳng xuống ở phía trước. Dường như chỉ một pho Ngọc Hoàng Thượng Đế ở giữa là chính gốc, còn hai tượng bên như đã được gán ghép vào ( vốn không phải cùng một bộ).

Trước mặt ba pho trên là pho tượng Cửu Long Thích Ca sơ sinh cũ với phong cách dân gian, ngỗ nghĩnh và khá đẹp, theo dáng dấp của các tượng cùng loại vào thế kỷ XVII – XVIII. Đây là một pho cần chú ý. Trước mặt pho Thích Ca sơ sinh là tượng Quan Âm Chuẩn Đề. Pho này cũng có niên đại khá muộn, được thể hiện khi mà những quy tắc thông thường về hình tượng này có phần đã bị suy lạc, với ngón tay dài vuốt cứng không tự nhiên, song ấn Chuẩn Đề kết trước ngực có vẻ hững hờ không được chuẩn, chỉ có khuôn mặt vẫn theo cách cũ.

Về bộ Cửu Long Thích Ca sơ sinh, đây là bộ có nhiều tượng nhỏ ( vừa có tượng gốc, vừa có tượng bổ sung về sau), hình thức có phần vui. Trung tâm là tượng Thích Ca sơ sinh mặc váy cũn cỡn, pho này làm đúng theo tư duy nông nghiệp Bắc Bộ, với tay trái (âm) chỉ lên trời (dương) và tay phải ( dương) chỉ xuống đất (âm), đó là hình tượng phù hợp với quy luật âm dương đối đãi của trời đất.

Đứng trước tượng này, người Phật tử như còn thoảng nghe thấy lời " Tuyên ngôn" của Thích Ca, rằng " Thiên thượng, thiên hạ duy ngã độc tôn". Ngài đã dạy chúng sinh rằng: Ngã ở đây là ta, song không phải là cái ta cá thể (Átman) mà là Đại Ngã trường tồn ( Brâhman) đồng nhất với Bản thể chân như, tức Phật thân ẩn chứa trong mỗi chúng sinh. Trong tạo hình, có một số tượng nhỏ được bổ sung vào, song cách sắp xếp chưa được đúng, như đặt tượng A Di Đà cao hơn Tam Thế Phật, khiến Quan Âm và Thế Chí đứng chơ vơ.

Tình trạng đó cũng tương tự như đối với Ca Diếp và A Nan Đà khi mà Tuyết Sơn bị ngồi xuống tận dưới cùng. Ở đây cũng có một số tượng được làm theo tích Phật, như bà Ma Gia sinh ra đức Thích Ca ở nách (với hình tượng một bà mẹ giơ tay lên cao, để lộ rõ một chú bé lấp ló ở ống tay áo) hay vài thiên tướng dưới dạng như những hộ pháp, rồi vua Tịnh Phạn với những người hầu cận.

Ngoài những pho trên chính điện, ở toà Tiền đường còn tượng Khuyến Thiện, Trừng ác, Thánh Tăng và gần đây là tượng Đại Phạm Thiên Vương được đưa vào cho việc cúng vong và phục vụ công tác kinh tế của nhà chùa. Ở mặt tạo hình, nhìn chung các pho này chưa thấy gì nổi bật.

Trong hệ thống tượng cũng cần phải điểm tới tượng Tổ, nổi lên là hai tượng Bồ Đề Đạt Ma ngồi ở lớp giữa và Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cưỡi sư tử ngồi trên cùng. Đó là điểm riêng của chùa này.

Bồ Đề Đạt Ma là sơ tổ Đông Độ, được coi như người đầu tiên đem Thiền Tông Ấn Độ tới lưu truyền trên đất Trung Hoa, đã lập ra phái Thiếu Lâm, truyền thừa tới đời thứ 6 thì nổi lên có 2 vị là Huệ Năng và Thần Tú.

Phái của Huệ Năng chú ý hoằng dương Phật Pháp ở phía Nam, để rồi ảnh hưởng tới Phật giáo nước ta một cách mạnh mẽ từ thế kỷ thứ XVII. Vì thế hầu hết các ngôi chùa ở đất Việt đều coi Bồ Đề Đạt Ma như một vị sư tổ chung, được đặt ở vị trí cao và sâu nhất trên Ban thờ Tổ.

Còn Văn Thù Bồ Tát, dù có lịch sử ghi chép như thế nào đi nữa, Ngài cũng không phải là một vị sơ tổ như Đạt Ma, Ngài được người Trung Hoa lập chùa thờ với trung tâm là Ngũ Hành Sơn. Ảnh hưởng của Ngài tới đất Việt chủ yếu được đặt bên trái tượng Thích Ca (Ở Việt Nam vị trí này nhiều khi lẫn với Phổ Hiền, ngay như ở chùa này), Ngài cưỡi con sư tử, thường màu xanh, với những chùa nhìn về hướng Nam.

Trong tư cách đó, Ngài tượng cho Chân Trí tuyệt đối của nhà Phật. Ở lĩnh vực tạo hình, về dáng bên ngoài, tượng Văn Thù có nét gần gũi với tượng Văn Thù ở chùa Bút Tháp, tuy nhiên mặt nào đó thân hình có vẻ mập mạp và có nhiều điểm làm chúng ta phải suy nghĩ, như Thiên quan có vẻ theo phong cách của tạo hình thế kỷ XVIII.

Chùa còn bảo lưu được một hệ thống di vật có giá trị, đa dạng về chất liệu, phong phú về hình thức, sâu sắc về nội dung, có niên đại trải dài từ thời Lê đến thời Nguyễn như: bia đá, chuông đồng, câu đối, hoành phi cùng nhiều đồ thờ khác... Chùa Thượng Đồng được coi là một bảo tàng điêu khắc dân gian với các bộ tượng Phật mang phong cách nghệ thuật từ thế kỷ XVIII - XX.

Chùa Thượng Đồng còn là một địa điểm diễn ra những sự kiện gắn với lịch sử cách mạng ở địa phương như: Tháng 3/1945, Hội nghị Mặt trận Việt Minh thôn, xã đã họp bàn về việc chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Ngày 19/8/1945, tại cây đa trước chùa, tự vệ chiến đấu và quần chúng nhân dân toàn tổng Đặng Xá đã tập trung để giành lại chính quyền huyện lỵ Gia Lâm. Chùa cũng là nơi du kích thôn và bộ đội địa phương thường xuyên ẩn náu, hoạt động phá hoại vùng địch hậu trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chùa là nơi đặt hầm hậu phẫu, điều trị của Viện Quân y 108...

Chùa Thượng Đồng đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật năm 1993./.

Bùi Thế Quân

Nguồn: Cổng thông tin điện tử quận Long Biên

Trở về đầu trang
   Chùa Thượng Đồng phường Phúc Lợi quận Long Biên thành phố Hà Nội
0   Tổng số:

Các tin khác

  • Xá lợi Đức Phật trở về Ấn Độ sau hành trình tôn trí tại Việt Nam
  • Quảng Ninh: Hạ Long quan tâm tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa
  • Xá lợi Đức Phật được tôn trí, an vị tại chùa Quán Thế Âm (Đà Nẵng)
  • Đền An Xá – Thụy Ứng quán thờ phụng Ngọc Hoàng thượng đế, Ngũ lão Tiên ông
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật
  • Ra mắt Tour đêm “Tiếng chuông Trấn Vũ” tại đền Quán Thánh
  • Lan tỏa giá trị toàn cầu của Khu di tích danh thắng quốc gia đặc biệt Yên Tử
  • Cung nghinh xá lợi Đức Phật an vị vào Cung Trúc Lâm Yên Tử (Quảng Ninh)
  • Cụm di tích đình Hội, chùa Thanh Linh xã Tuy Lộc- di tích lịch sử văn hóa tỉnh Phú Thọ
  • Hàng nghìn người dân tới chiêm bái xá lợi Đức Phật tại chùa Bái Đính
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Long An phát triển du lịch qua di tích lịch sử - văn hóa

    163
  • Quảng Nam: Tây Giang hướng đến phát triển du lịch xanh

    120
  • Hải Dương: Phường rối nước Thanh Hải được công nhận là điểm du lịch

    117
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật

    112
  • Cung đường mới - động lực lớn cho phát triển du lịch hồ Ba Bể (Bắc Kạn)

    104

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2025 Trang thông tin du lịch