Miếu - Chùa Bảo Hà thuộc thôn Bảo Hà, xã Đồng Minh, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng thờ phụng thành hoàng làng là Linh Lang Đại vương thời vua Lý Thái Tông. Chủa Bảo Hà thờ Phật.
Miếu - Chùa Bảo Hà được
Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử quốc gia, cùng với đình Từ Lâm, Từ đường Hoa
Duy Thành tạo thành một cụm di tích lịch sử và nghệ thuật tiêu biểu của huyện
Vĩnh Bảo.
Cụm di tích lịch sử không chỉ là điểm sinh hoạt văn hóa tín
ngưỡng đầy ý nghĩa, niềm tự hào của dân làng mà còn là điểm du lịch hấp dẫn của
du khách trong và ngoài nước.
Bảo Hà là một trong 3 thôn thuộc xã Đồng Minh, huyện Vĩnh Bảo,
một vùng quê trù phú của ngoại thành Hải Phòng. Ngoài nghề nông, Bảo Hà còn là
làng nghề điêu khắc, sơn mài nổi tiếng mà dân gian vẫn lưu truyền câu ca:
“Linh Động xứ Đông
Sơn Đồng xứ Đoài”
Xuất phát từ một làng nghề điêu khắc, nên cụm di tích miếu-chùa
Bảo Hà có nhiều nét khá đặc biệt giống như bảo tàng điêu khắc cổ, được Bộ Văn
hóa Thông tin xếp hạng cấp Quốc gia năm 1991.
Miếu Bảo Hà còn gọi là miếu Ba Xã hay miếu Cả. Bởi lẽ xưa
kia miếu là công trình tín ngưỡng chung của dân ba xã: Linh Động (sau đổi thành
Bảo Động), Hà Cầu và Mai Yên. Sau này 3 xã sát nhập lại thành thôn Bảo Hà ngày
nay. Tên gọi miếu Cả vì thôn Bảo Hà trước kia có tới 4 miếu nhưng miếu Bảo Hà
là miếu chung và to nhất nên nhân dân thường gọi là miếu Cả.
Miếu được xây dựng tại thôn Bảo Hà, xã Đồng Minh là công
trình tưởng niệm, ghi nhớ công đức của Linh Lang Đại Vương, người anh hùng có
công dẹp giặc ngoại xâm giữ nước của dân tộc. Về tiểu sử vị Thành Hoàng, thư tịch
cổ cung cấp: Linh Lang chính là Hoàng tử Hoàng Chân con vua Lý Thái Tông. Năm
1069, giặc Tống xâm lược nước ta, hoàng tử cầm quân chống giặc.
Một lần, ngài hành quân tới trang Linh Động (nay là làng Bảo
Hà) dựng đồn binh, luyện tập binh sĩ, mộ tuyển thêm quân. Khi ngài mất, dân
làng xây miếu thờ ngay trên nền đồn binh xưa. Các triều đại sau như Cảnh Thịnh
(1796), Tự Đức rồi Duy Tân, Khải Định đều phong sắc cho ngài là “Thượng Đẳng Thần”.
Để tỏ lòng thành kính, dân làng tạc tượng thờ và tôn là Thành Hoàng làng.
Ngoài ra miếu còn thờ Nguyễn Công Huệ - ông tổ nghề tạc tượng,
người có công khai nghiệp tạc tượng nổi danh. Người đời truyền ngôn rằng: “Thuở
giặc Minh đô hộ nước ta, chúng bắt một số thanh niên trai tráng trong làng đi
phục dịch rồi đưa sang Quan xưởng ở Trung Quốc, trong đó có Nguyễn Công Huệ. Thời
gian ở đó, ông chú tâm học hỏi nghề chạm khắc, nghề sơn mài và nghề châm cứu.
Hằng năm, từ ngày 8 đến ngày 10 tháng giêng, cánh thợ tạc tượng,
thợ sơn trong làng lại sửa lễ ra miếu Cả chiêm ngưỡng tổ sư, mọi người kính cẩn
nhớ tới “Đức Tổ sư ta, khi nhỏ sống ở nước Nam, tin sùng đạo phật, khi lớn sang
Bắc học được nghề tạc tượng, tài cao xuất chúng, nghề nghiệp tinh thông, về nước
khai sáng nghề nghiệp”.
Đến đời Lê Nhân Tông (1443-1459), Nguyễn Công Huệ được trở về,
ông mang tâm sức mở nghề, lập nghiệp, truyền dạy cho dân làng và được mọi người
suy tôn là tổ sư nghề tạc tượng. Miếu Bảo Hà được xây dựng khá sớm và đã trải
qua nhiêu lần tu sửa, tôn tạo. Theo các già làng kể lại, kiến trúc Miếu trước
đây bố cục kiểu năm “Tiền nhất hậu đinh”, gồm ba tòa nhà là: tiền đường (cung
nhất) 7 gian, đại bái (cung nhì) 5 gian và 2 gian hậu cung. Trong kháng chiến
chống Pháp, tòa tiền đường cùng một số đồ thờ, tượng quý bị đốt cháy. Đến 2004,
nhân dân đóng góp tiền của xây lại tòa tiền đường, mở rộng sân và khuôn viên của
miếu.
Miếu Bảo Hà có không gian kiến trúc không lớn nhưng dân làng
còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý, trong đó có 50 hiện vật thuộc đồ mộc tiêu
biểu cho nghệ thuật điêu khắc của bao lớp thợ người Linh Đông, Hà Cầu xưa.
Tượng thờ Linh Lang Đại vương
Tượng thờ tổ nghề Nguyễn Công Huệ
Hồ nước phong thủy trước Miếu thờ
Ngôi miếu được xem như một bảo tàng điêu khắc cổ, nơi bảo tồn
tài hoa nghệ thuật của làng nghề tạc tượng, rối cạn, sơn mài nổi tiếng. Một số
pho tượng bảo lưu tại đây có thể được liệt vào hàng “kinh điển” trong nền nghệ
thuật dân tộc như tượng Thánh Linh Lang, tượng Tổ Nguyễn Công Huệ, tượng Tố Nữ,
tượng Quan Văn, Quan Võ, tượng Phỗng, tượng Quan Quận... Độc đáo nhất là pho tượng
Thành Hoàng (Tượng Linh Lang Đại vương) tương truyền do cụ Nguyễn Công Huệ tạc.
Tượng cao bằng người thật, nét mặt thanh tú, khôi ngô, đầu đội
mũ, mình mặc quần áo lụa. Chân và tay pho tượng có nhiều khớp chốt đanh gỗ theo
kỹ thuật tạo con rối nên tượng có thể đứng lên ngồi xuống được. Pho tượng đã để
lại ấn tượng và sự khâm phục về tài năng, kỹ thuật tạc tượng của vị Thánh sư.
Ngoài pho tượng Thành hoàng độc đáo trong miếu còn 13 pho tượng
khác, mỗi pho một vẻ. Đó là 3 pho tượng Tố Nữ (cao 100cm) rất đỗi dịu dàng, khỏe
khoắn, môi chúm chím trái đào, tóc buông dài, vạt áo cài lệch cố ý để lộ ra khoảng
cổ cao trắng ngần, quyến rũ. Tượng Chân Thân tổ nghề Nguyễn Công Huệ tương truyền
do Tô Phú Vượng tạc.
Tượng cao 61cm ngồi trên ngai, thể hiện một cụ già râu tóc bạc
phơ, khuôn mặt đầy đặn, trán cao, mắt sáng, trông rất thông minh và phúc hậu.
Tượng quan văn, quan võ, tượng phỗng, tượng Quan quận... tất cả là một hệ thống
tượng mô phỏng triều đình thu nhỏ gồm vua, quan tứ trụ, cung nữ, và gia nô phục
dịch. Phải chăng các nghệ nhân Bảo Hà đã lấy mẫu ở ngay những con người đang sống
thời đại mình rồi hóa thân vào những pho tượng.
Do đó các pho tượng ở đây thực sự là những tác phẩm điêu khắc
giàu sức sông, đậm đà tính hiện thực và góp phần làm phong phú thêm đời sống
tâm hồn của người Việt Nam.
Tại Bái đường có giếng bán nguyệt và mạch nước thiêng thông
ra trước cửa. Khi thả quả Bưởi xuống đó khoảng 10 phút sau mạch nước thiêng sẽ
kéo quả Bưởi ra ao ngoài cửa miếu cách xa gần 20 mét tạo thêm sự ngạc nhiên,
thú vị và để lại nhiều ấn tượng cho du khách.
Tham quan miếu Bảo Hà, du khách còn được nghe rất nhiều câu
chuyện kể về những bàn tay khắc gỗ nên vàng của những Kỳ tài hầu, Diệu nghệ bá,
Cục phó nam tước,... thưởng thức chương trình múa rối cạn với các tích trò:
Trương Viên, Viên ngọc lưu ly, Thạch Sanh, Quan âm Thị Kính... thật kịch tính
và đặc sắc.
Hội làng Bảo Hà xưa diễn ra từ ngày 10 đến ngày 15/2 (âm lịch).
Trong những ngày này, khắp xóm thôn náo nhiệt không khí hội hè, tế lễ thánh được
tổ chức trong miếu rất trang nghiêm. Phần hội có múa lân, rối cạn, hát nhà trò,
hát chèo, đánh cờ... nhưng vui nhất là lễ rước lợn Hỗng.
Hàng năm, làng luân phiên cắt cử người nuôi lợn Hỗng làm lễ
vật tế thần. Những người được nhận vinh dự này phải là các bậc cao niên, những
người danh vọng, có uy tín và điều kiện kinh tế. Trước ngày hội mở ba ngày, lợn
Hỗng được chăm sóc bằng chế độ đặc biệt: cho ăn trứng gà, mía cây, hàng ngày tắm
bằng nước thơm, chuồng trại sạch sẽ... Lễ rước lợn Hỗng khởi hành từ nhà gia chủ,
đi quanh làng rồi về dự lễ tế thánh ở miếu.
Người được cử mang cái này, vác cái kia trong lễ rước thường
là các đỉnh không tang trở, chay tịnh. Lợn Hồng được đặt trong cũi, trang trí
giấy hồng điều. Sau lễ tế thánh là nghi thức chấm điểm. Lợn Hỗng được cân, nếu
có trọng lượng cao hơn lợn Hỗng năm trước thì gia chủ được nhận giải của làng.
Phần thưởng thường là một sào nhất đẳng điền. Những năm tiếp
theo, nếu không có lợn Hồng nào vượt trọng lượng lợn Hồng năm trước thì ngôi
quán quân vẫn thuộc người có lợn Hồng trọng lượng cao nhất. Đây là tục lệ đẹp,
một hình thức khuyến khích chăn nuôi phát triển của cư dân vùng nông nghiệp.
Cách miếu không xa là chùa Miễu (tên chữ là Linh Miếu Tự).
Đây là ngôi chúa có kinh, cảnh đẹp thanh bình. Tương truyền chùa được xây dựng
từ đời Trần do Đô đốc quận công Hoa Duy Thành cùng một vị quan đại phu người
cùng làng xây dựng. Chùa nằm biệt lập giữa cánh đồng làng gồm chùa chính, nhà tổ,
nhà khách và mộ tháp.
Đây là một trong những ngôi chùa còn giữ được nhiều tượng Phật
có giá trị, toàn bộ được tạc bằng gỗ mít, có niên đại trải dài từ thế kỷ XVI đến
thế kỷ XIX. Trong đó nổi tiếng là các pho Đức Ông Cảnh Cừ, tượng Ngọc Hoàng, tượng
Thánh Tăng, tượng A Di Đà, tượng Hộ Pháp...
Nhà tăng có tượng Đức Tổ và 12 vị sư trụ trì chùa. Đây là những
tượng chân dung hết sức độc đáo, được tạc theo thế ngồi kiết già, ấn “tam muội”,
kích thước gần giống người thật, vẻ mặt sinh động, nhân hậu, không nét xa cách.
Hệ thống tượng trong chùa vô cùng đẹp, đậm tính nhân bản,
chau chuốt, mộc mạc chứa đầy sức sống phản ánh rõ tài năng sáng tạo của những
người thợ Bảo Hà, những nghệ sĩ tạo hình dân gian trong việc phản ánh hiện thực
của xã hội bấy giờ.
Ngoài hệ thống tượng pháp, còn rất nhiều cổ vật khác như:
bát hương đá (thế kỷ XVIII), chuông đồng (thế kỷ XIX) và 7 tấm bia đá (thời
Lê)... là những di sản văn hóa vô giá chứng minh tầm vóc của chùa. Những tấm
bia với nội dung rõ ràng bằng chữ Hán ghi nhận công lao của vị Quận công cùng
nhân dân cung tiến tiền của, nhân chứng về những lần trùng tu, tôn tạo ngôi
chùa.
Miếu - Chùa Bảo Hà được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử quốc
gia cùng với đình Từ Lâm, Từ đường Hoa Duy Thành tạo thành một cụm di tích lịch
sử và nghệ thuật tiêu biểu của huyện Vĩnh Bảo. Đây không chỉ là điểm sinh hoạt
văn hóa tín ngưỡng đầy ý nghĩa, niềm tự hào của dân làng mà còn là điểm du lịch
hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước.
Nguồn: Thành đoàn Hải Phòng