• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
Văn hóaGiá trị lịch sử
  • UKEnglish

Giá trị lịch sử

Đình Thư Cưu, Cổ Loa thờ phụng vua An Dương Vương Thục Phán

Đình Thư Cưu, Thôn Thư Cưu, Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội, là tên thường gọi của di tích, kèm theo địa danh của địa phương là làng Thư Cưu. Đình thờ phụng vua An Dương Vương Thục Phán.

Năm 1962, do tác động của thời gian và ảnh hưởng của chiến tranh, đình đã bị sập đổ hoàn toàn. Từ năm 1992 đến năm 2008, chính quyền và nhân dân địa phương đã xây dựng từng phần để có được ngôi đình như ngày nay.

Đình Thư Cưu

Đại đình có diện tích 255m2 , mặt bằng công trình hình chữ “Đinh” với tiền đường 3 gian 2 dĩ, đao 4 góc mái và có cột đá đỡ, các góc mái đao, hậu cung 3 gian và gian cuối hậu cung là tường hồi bít đốc. Kết cấu công trình là hệ móng, tường bao che xây gạch, mặt tường trước để mộc không trát, các mặt khác đều trát vữa.

Ngay sau hệ cửa bức bàn là bức võng được chạm lộng với những hoạ tiết tinh xảo, phía trên là đôi rồng chầu quả cầu lửa, hoa cúc và vân mây được cách điệu lồng vào nhau. Trần gian chính giữa được ốp 3 lớp, sơn son thếp vàng và nhiều chi tiết gờ chỉ, phào nổi trang trí. Hai chái bên đốc được hạ lấy mái chèo xuống hàng cột hiên. Ba gian giữa cửa lối bức bàn bưng kín, hai gian chái xây gạch chừa cửa sổ chữ thọ.

Hệ vì nóc, cột, cửa tiền đường đều được gia công bằng gỗ táu mật để mộc, đục chạm tinh xảo theo phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Hệ vì nóc, cột hậu cung được gia công bằng gỗ xoan đơn giản.

Đình hiện nay có 03 sắc phong: Sắc phong thứ nhất ngày 20 tháng 4 năm Long Đức thứ nhất Nhuận (1629); Sắc phong thứ hai ngày 18 tháng 11 năm Thành Thái thứ nhất (1889); Sắc phong thứ ba ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9 (1924).

Sắc phong ở đình Thư Cưu (Cổ Loa) năm Đức Long thứ nhất (1629)

"Sắc phong đức Đại vương An Dương Vương Hiển liệt Khai cơ Thuận ứng Phu huệ Phổ thí Uy võ Thiên ứng Trợ thuận Chiêu nghĩa Hiển nhân Hoành văn Thịnh đức Vĩ tích Tuấn công Triệu nghiệp Lương hoá Hữu quốc Hộ dân, Là hậu duệ của Thục Trung Hoa, có hùng tài trùm Thiên hạ, cầm quân dương oai nỏ thần, có nhiều mưu lược, có sự nghiệp giúp giữ thế nước vững Âu vàng dài lâu, hiển ứng linh thiêng trong Việt điện, có nhiều công phù trợ các thời, các đời đều có điển tích phong tặng. Nay triều kỷ mới thay nên thuận phong tặng thêm. Phong thêm đức Đại vương An Dương Vương Hiển liệt Khai cơ Thuận ứng Phu huệ Phổ thí Thành võ Thiên ứng Trợ thuận Chiêu nghĩa Hiển nhân Hoành văn Thịnh đức Vĩ tích Tuấn công Triệu nghiệp Lương hoá Hữu quốc Hộ dân Bính hưu Tuy phỉ. Vậy nên ban sắc!

Nguyên văn:

"Sắc An Dương Vương Hiển liệt Khai cơ Thuận ứng Phu huệ Phổ thí Uy võ Thiên ứng Trợ thuận Chiêu nghĩa Hiển nhân Hoành văn Thịnh đức Vĩ tích Tuấn công Triệu nghiệp Lương hoá Hữu quốc Hộ dân Đại vương,  Thục Trung Hoa duệ Thiên hạ hùng tài, cử binh dương thần nỗ chi uy, a lũ chi kinh doanh, sự nghiệp phù quốc diễn kim âu chi tộ, Việt điện chi hiển trứ anh linh, cư đa tương hữu chi công, tải cử bao phong chi điển, vi cải kỷ chính, thuỷ ứng gia phong.  Gia phong An Dương Vương Hiển liệt Khai cơ Thuận ứng Phu huệ Phổ thí Thành võ Thiên ứng Trợ thuận Chiêu nghĩa Hiển nhân Hoành văn Thịnh đức Vĩ tích Tuấn công Triệu nghiệp Lương hoá Hữu quốc Hộ dân Bính hưu Tuy phỉ Đại vương. Cố sắc!"

Thư Cưu là làng rất nhỏ, trước Cách mạng chỉ có chưa đầy 40 gia đình, tất cả đều mang họ Nguyễn. Tuy nhiên, theo tấm bia lập năm Vĩnh Thịnh thứ 15 (1719) còn lưu ở chùa thì vào thời điểm này, làng đã là một xã độc lập. Đầu thế kỷ XIX, làng chỉ còn là một thôn thuộc xã Lương Quán, tổng Cổ Loa, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (từ 1831 trở đi là tỉnh Bắc Ninh). Đến đầu những năm 30 của thế kỷ XX, làng lại tách ra thành một xã.

Dân làng xưa kia làm ruộng là chính. Cả làng chỉ có 86 mẫu ruộng, phần lớn là ruộng công, dành vào việc tế lễ và bán thuê, lấy tiền dùng vào các việc chung.

Làng có nghề làm bỏng mật. Tục truyền, nghề này có từ thời Thục An Dương, làng chuyên lo hậu cần cho triều đình và binh lính. Thường thì, từ sau hội tháng Giêng, khi đã làm lễ tiến bỏng lên An Dương Vương ở đình Cổ Loa, việc làm bỏng mới bắt đầu. Thóc làm bỏng là từ nếp cái hoa vàng, thường mua ở làng Dục Tú, hạt thóc khi rang lên nổ bỏng đều và to. Thóc được rang trong một chảo to nên phải đắp lò, đáy chảo tráng qua một lượt mỡ để thóc không cháy, lại nhanh nổ bỏng.

Lấy 10 que tre nhỏ như que tăm bó chụm lại làm que để khua thóc trong chảo cho nóng đều, đầu bó que chấm một lớp mỡ. Khi thóc nổ hết bỏng đem ra giần, mẹt xảy hết trấu, trộn với một ít lạc đã rang, rồi hòa với nước mật (thường là mật ở vùng Mai Lĩnh, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây). Tỷ lệ mật trộn theo phụ thuộc một trong ba loại bỏng được làm ra:

- Bỏng thửa: làm cho những người đến đặt để đi lễ hoặc có công việc lớn. Loại bỏng này thường nhiều mật và có thêm thảo quả cho thơm.

- Bỏng nặng: loại bỏng thứ hai, ít mật hơn loại bỏng thửa và không có thảo quả.

- Bỏng nhẹ : ít đường mật, không có thảo quả và lạc.

Trộn mật xong cho vào khuôn ép thành các khối bỏng có kích thước 37 x 10 x 10 cm.

Trước Cách mạng, do không đủ ruộng đất để cày cấy, ruộng lại chỉ cấy được vụ mùa nên hầu hết các gia đình đều làm bỏng để có thu nhập. Một gia đình trong một ngày làm một xó thóc (khoảng 8 kg) và bán hết hàng thì được lãi khoảng 5 kg gạo, đủ lương thực và có thêm tiền chi tiêu, lại tận dụng được sức lao động của cả gia đình trong nhiều tháng làm nghề (từ tháng Giêng đến hết tháng Ba). Bỏng làm xong, phải gánh bỏng đi khắp các chợ trong vùng (trong vòng bán kính 20 km) để bán, như chợ Sọ (Phù Lỗ), chợ Núi (Sóc Sơn), chợ Chờ (Yên Phong, Bắc Ninh), chợ Me, chợ Giầu (Từ Sơn, Bắc Ninh), thậm chí ra cả chợ Bưởi (Hà Nội).

Do là làng nhỏ nên xưa kia Thư Cưu không chia thành các xóm và giáp. Trai đinh trong làng lần lượt làm nghĩa vụ theo tuổi tác. Làng không có lệ nuôi lợn thờ.

 
 
 
 

Ngôi đình được sửa lại từ ngôi đình lá vào năm Vĩnh Thịnh thứ 15 (Kỷ Hợi, 1719). Xưa kia, đây là ngôi đình 5 gian nối với hai gian hậu cung, nhìn hướng Nam. Lúc đầu đình ở vị trí hiện nay, sau đó được chuyển về cổng làng, rồi lại được chuyển về vị trí hiện tại. Cả hai lần chuyển đều không rõ thời điểm. Mới đây đình đã hoàn thành việc trùng tu.

Làng có chùa Linh Quang, hiện trong chùa chỉ còn hai tấm bia muộn nên không thể cho biết quá trình xây dựng và tu bổ chùa. Tấm bia thứ hai “Linh Quang tự hậu Phật bi” mới lập ngày mồng một, tháng Chạp năm Bảo Đại thứ chín (1934) có nội dung ông Nguyễn Văn Xuân và vợ là bà Nguyễn Thị Đàm xuất 20 đồng và 1 sào 10 thước ruộng cho chùa để được chùa cúng giỗ.

Trước Cách mạng, làng Thư Cưu kết nghĩa với hai làng Lương Quán và xóm Thượng (làng Cổ Loa). Việc kết nghĩa của làng vì hai lý do: với làng Lương Quán, do làng này thường xuyên giúp đỡ về mặt rước hội và tổ chức đám tang; còn với xóm Thượng là xóm cận cư, cận canh nên luôn giúp Thư Cưu trong việc việc bảo vệ an ninh và tổ chức tang lễ.

Đình Thư Cưu được UBND thành phố Hà Nội công nhận là Di tích lịch sử cấp tỉnh, thành phố ngày 01 tháng 6 năm 2011.

TS. Bùi Xuân Đính

Nguồn: Hà Nội Mới

Trở về đầu trang
   Đình Thư Cưu Cổ Loa Đông Anh Hà Nội thờ phụng vua An Dương Vương Thục Phán
6   Tổng số:2 lượt

Các tin khác

  • Đền Ninh Xá thờ Lương Bình Vương, An Nhu Vương và Lão La đại thần Ninh Hữu Hưng
  • Ngôi đình thờ Thành hoàng làng, nhị vua Phùng Hưng và Ngô Quyền
  • Chuyện về một danh tướng, đức Thánh họ Đào
  • Đình Mai Hiên, Mai Lâm, thờ phụng tướng Đào Ky, Phương Dung triều đại nhị vua Hai Bà Trưng
  • Đình cổ Đào Lâm, thờ phụng 4 vị tướng là Phạm Vân, Hoàng Công Bỉnh, Vũ Công Tạo và Thái tử Lý Mạnh thời vua Lý Nam Đế
  • Làng Phú Mỹ, thờ phụng thành hoàng làng là Lý Nam Đế, Lý Phật Tử và Ả Lã nàng Đê
  • Cụm di tích Đình, Đền, Chùa Phong Xá thờ phụng thánh Ngô Thanh Minh - tướng quân triều đại vua Ngô Quyền
  • Đình làng Trinh Nữ xã Yên Hòa thờ phụng thánh Cao Sơn Đại vương, quan Tổng Binh, Tây Cung Công Chúa, Tứ vị Hồng Nương
  • Đình Phù Lưu Thượng, thờ phụng vua Lý Nam Đế, vua Đinh Tiên Hoàng và Không Bảng đại vương triều Đinh
  • Bảo tàng biệt động Sài Gòn – Chuyện về những chiến sĩ biệt động huyền thoại
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Du lịch tâm linh là gì? 10 địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng Việt Nam

    1076
  • Khánh thành tu bổ di tích đình Trường Lâm

    629
  • Món ốc "kỳ lạ" ở Việt Nam khiến thực khách mỏi tay hoa mắt nhưng vẫn thích mê

    506
  • Núi Bà Đen Tây Ninh sẽ tổ chức Lễ vía Quán Thế Âm Bồ Tát vào ngày 19/2 âm lịch

    442
  • Đình làng Nghĩa Chỉ, thờ phụng Bố Cái Đại vương Phùng Hưng

    426

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2023 Trang thông tin du lịch