Chùa Dạm, tên chữ là Đại Lãm Thần Quang tự, hay còn gọi là chùa Bà Tấm, chùa Cao, chùa Trăm Gian (ngày xưa chùa có 100 gian nhưng không phải chùa Trăm Gian Hà Nội), cũng được gọi là chùa Lãm Sơn, theo tên núi. Chùa Dạm là đại danh lam từ thời Lý và có lịch sử gần 1.000 năm.
Chùa Dạm dựa vào núi Dạm, nhìn về phía sông Đuống, xưa thuộc xã Lãm Sơn Trung, tổng Lãm Sơn Nam, huyện Quế Dương, nay thuộc phường Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
Theo các thư tịch cổ như Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam nhất thống chí và Lịch triều hiến chương loại chí, chùa Dạm (chùa Lãm Sơn) được khởi dựng vào năm Quảng Hựu thứ nhất (1085), theo ý tưởng của Nguyên phi Ỷ Lan khi bà dạo chơi núi Đại Lãm.
Chùa được khởi dựng vào năm 1086 và hoàn thành vào năm 1094. Theo Mộc bản Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 3, sự kiện này được ghi chép ngắn gọn: “Làm chùa ở núi Đại Lãm”.
Trong quá trình xây dựng, vua Lý Nhân Tông đã nhiều lần ghé thăm công trình. Năm Đinh Mão (1087), nhà vua đã đến và mở yến tiệc tại chùa, như ghi lại trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục: “Tháng 10, mùa đông, mở yến tiệc thết các bầy tôi tại chùa Lãm Sơn”. Đặc biệt, vua Lý Nhân Tông đã sáng tác bài thơ nổi tiếng “Lãm Sơn dạ yến” để kỷ niệm dịp này.
Khi hoàn thành, chùa được vua ban là Cảnh Long Đồng Khánh, ban 300 mẫu ruộng tự điền để chùa có hoa lợi hương khói và bảy gia đình ở dưới núi được giao việc chuyên đóng - mở cửa chùa.
Quá trình xây dựng chùa kéo dài gần hai thập kỷ với nhiều công đoạn công phu. Năm Mậu Thìn (1088), nhà vua cho xây dựng tháp đá trong khuôn viên chùa. Đến năm Giáp Tuất (1094), tháp hoàn thành, đánh dấu một kiến trúc Phật giáo quy mô bậc nhất thời bấy giờ.
Năm Ất Dậu (1105), vua Lý Nhân Tông tiếp tục cho xây dựng thêm ba ngọn tháp đá, chùa Dạm trở thành một trung tâm Phật giáo hàng đầu của nước ta thời đó.
Qua nhiều thế kỷ, chùa Dạm được các triều đại đời sau trùng tu mở rộng quy mô và trở thành đại danh lam tín ngưỡng nổi bật.
Trong kháng chiến chống Pháp, ngôi chùa phải tiêu thổ kháng chiến, đến nay chỉ còn lại những dấu tích như các lớp nền đá nguyên gốc, cột đá chạm rồng, gạch ngói và đất nung chạm hình thú. hân dân địa phương đã đốt chùa để tiêu thổ kháng chiến. Hai bức tượng Mẫu Nguyên phi Ỷ Lan và tượng Vua Lý Nhân Tông còn lại được gửi vào chùa Hàm Long gần đó nên mới giữ được đến ngày nay.
Năm 1986 chùa được phục dựng với ba gian điện nhỏ thờ thần Phật và ba gian đền thờ hai cổ vật còn sót lại là tượng Nguyên phi Ỷ Lan và vua Lý Nhân Tông.
Hiện tại chùa Dạm đang được phục dựng lại theo Dự án bảo tồn và xây dựng chùa Dạm, thuộc Khu du lịch văn hóa và sinh thái núi Dạm.































Chùa Dạm xưa nằm trên sườn núi với bốn bậc nền cao dần với chiều dài 120m bám theo triền dốc của núi Dạm, chiều rộng mặt nền chùa khoảng 70m. Tà luy các cấp bậc nền có độ cao 5 – 6 mét, dốc 70 độ, được xếp đá chống xói lở, chân hơi choãi, chếch khoảng 70 độ và cao 5–6 m. Lên xuống giữa các bậc nền là đường bậc thang. Sân trên các bậc nền được lát gạch thời Lý với hoa văn hình rồng, phượng, sen dây, cúc dây.
Chùa Dạm tại xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh hiện chỉ còn lưu lại các di tích nền móng, song luôn tồn tại trong tâm tưởng về một ngôi chùa Dạm to lớn, một trung tâm Phật giáo, đại danh lam thời nhà Lý của Đại Việt.
Lễ hội của chùa Dạm vào ngày mùng 8 tháng 9 (âm lịch). Các làng quanh chùa Dạm mở hội và rước kiệu thành hoàng làng lên chùa Dạm yết kiến Thánh Mẫu (hay vua bà Ỷ Lan).
Chùa Dạm đã được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm 1962.
Nguồn: Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD