• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
Văn hóaGiá trị lịch sử
  • UKEnglish

Giá trị lịch sử

Cụm di tích Đình - chùa Quan Đình, nơi thờ phụng Tứ vị nhân thần, trong đó có Cao Sơn đại vương và nhị thánh Tam Giang và thờ Phật

Cụm di tích Đình - Chùa Quan Đình là ngôi đình cổ, thờ phụng thờ Đức Thánh Tam Giang và thần Cao Sơn. Với những giá trị về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật, đình được Bộ Văn hoá Thông tin Việt Nam xếp hạng vào ngày 18/1/1988 số 28/VH-QĐ.

Cụm di tích đình-chùa Quan Đình, hiện thuộc địa phận thôn Quan Đình, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Ngôi đình nằm ở giữa làng, dựng theo hướng tây-nam, xung quanh là khu dân cư đông đúc, cũng như bao ngôi đình khác, Làng Quan Đình nay thuộc xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, thời Nguyễn là xã Văn Môn, tổng Mẫn xá, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Đình làng là một công trình tín ngưỡng văn hóa của dân tộc, nơi thờ thành hoàng làng là 4 vị thần: Tam Giang khước địch Đại Vương (tức Trương Hống), Tam Giang uy địch Đại Vương (Trương Hát) , Cao Sơn Đại Vương, Thổ thần. 

Thánh Tam Giang

Theo truyền thuyết thánh Tam Giang: Ngày xưa ở làng Vân Mẫu, thành phố Bắc Ninh có một người con gái tên là Phùng Từ Nhan. Năm 18 tuổi, Từ Nhan chiêm bao thấy thần Long từ trên trời hạ xuống quấn mình trên sông Lục Đầu, sau đó bà mang thai 14 tháng và sinh hạ được cái bọc 5 con: 4 trai 1 gái. Do là con trời ban cho nên bà lấy họ Trương của Ngọc Hoàng đặt cho các con là Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy và Trương Đạm Nương.

Thời gian sau đó, Ngọc Hoàng sai Lã Tiên Ông xuống trần dạy văn võ cho 5 người con tại bãi Tràng Học gần nhà Cổ Trạch. Năm an hem đều văn võ song toàn, lớn lên hưởng ứng lời kêu gọi của Triệu Việt Vương, họ xung phòng làm tướng tiến đánh giặc Lương ở đầm Dạ Trạch và giành thắng lợi lớn.

Trương Hống được phong tướng trấn giữ làng Tiên Tảo (Sóc Sơn, Hà Nội), Trương Hát được phong tướng trấn giữ làng Tam Lư (Từ Sơn, Bắc Ninh).

Khi Triệu Quang Phục lên ngôi vua, Lý Phật Tử đã đem quân đánh lại nhưng không thắng, bèn dùng kế cầu hôn gả con. Trương Hống và Trương Hát đã can Triệu Việt Vương nhưng Vua không nghe nên bị mắc mưu rồi bị đánh bại.

Lý Phật Tử đoạt được ngôi vua, biết các ông là tướng tài giỏi bèn cho người mời ra làm quan. Song các ông nhất lòng trung quân, mắng lại rằng: “Tôi trung chẳng thờ hai vua, huống hồ hắn là kẻ vong ơn bội nghĩa?” Biết không thể khuất phục được, Lý Phật tử lệnh truy bắt các ông khắp nơi. Các ông biết không thoát được liền tự vẫn ở dòng sông Cầu để giữ trọn tấm lòng trung với vua.

Ngọc Hoàng Thượng đế cảm thương đã sắc phong Trương Hống, Trương Hát làm thần sông. Nhân dân 372 làng dọc theo sông Cầu và các nơi hai ông từng đóng quân đánh giặc đều thương tiếc, lập đền thờ làm Thần.

Các triều đại nhà Ngô, Đinh, Lê, Lý sau đó được âm phù giữ yên bờ cõi nên đều phong anh em họ Trương là Đức thánh Tam Giang - đại vương thượng đẳng thần. Thánh Tam Giang còn gắn liền với huyền thoại ra đời tác phẩm Nam quốc sơn hà, bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của người Việt.

Thần Cao Sơn

Thần Cao Sơn hay Cao Sơn đại vương được thờ ở đình Quan Đình là Thần Cao Sơn thời Hùng Vương thứ nhất. Đây cũng là vị thần được thờ ở đình Kim Liên ở Hà Nội, một trong Thăng Long tứ trấn và đền Cao Sơn ở Hoa Lư tứ trấn Ninh Bình. Thần Cao Sơn là một trong 50 người con theo mẹ Âu Cơ lên núi, được phong chức Lạc tướng Vũ Lâm, cai quản vùng núi phía Tây Ninh Bình. Đền thờ chính của thần ở huyện Phụng Hóa, nay là đền Láo ở xã Văn Phú, Nho Quan, Ninh Bình.

Vị nhân thần có công phù trợ quân Lê Tương Dực diệt được Uy Mục, sau được dân làng Kim Liên rước về thờ và được phong là Cao Sơn đại vương trấn phía Nam kinh thành. Ở Ninh Bình, thần Cao Sơn được thờ ở nhiều di tích thuộc vùng núi Nho Quan - Tam Điệp và là vị thần trấn trạch phía tây Hoa Lư tứ trấn.

Theo như thần phả các đền thờ Cao Sơn ở Ninh Bình như: đền Núi Hầu (Yên Thắng -Yên Mô), đền Quảng Phúc (Yên Phong - Yên Mô), đền Quèn Thờ (Đông Sơn - Tam Điệp), đền Láo (Văn Phú, Nho Quan), đền Sơn Thần (Gia Thủy - Nho Quan), Đình Hương Thịnh (Phú Lộc, Nho Quan), đền Vô Hốt (Lạc Vân, Nho Quan), miếu Cao Sơn, (Kỳ Phú, Nho Quan), đền Gối Đại (Ninh Hải Hoa Lư) và đền Cao Sơn (khu núi chùa Bái Đính) thì Cao Sơn đại vương là Lạc tướng Vũ Lâm (tức vùng núi phía tây Ninh Bình ngày nay nên còn được gọi là vị thần tây trấn Hoa Lư tứ trấn), con thứ 17 vua Lạc Long Quân, khi vâng mệnh vua anh (Hùng Vương thứ nhất) đi tuần từ vùng Nam Lĩnh đến vùng Thiên Dưỡng, đã tìm ra một loài cây thân có bột dùng làm bánh thay bột gạo, lấy tên mình đặt tên cho cây là Quang lang (dân địa phương vẫn gọi là cây quang lang hay cây búng báng).

Thần đã dạy bảo và giúp đỡ người dân làm ăn sinh sống đồng thời bảo vệ khỏi các thế lực phá hoại vì vậy đã được nhân dân lập nhiều đền thờ.

Kiến trúc

Đình Quan Đình khởi thuỷ chỉ gồm 1 toà Đại đình hình chữ Nhất được dựng vào niên hiệu Cảnh Hưng thứ 34 (1773) tức năm Quý Tỵ. Đến thời nhà Nguyễn, niên hiệu Minh Mạng thứ 18 (1837), đình được tu sửa (dấu vết hiện còn được lưu ở cột cái gian giữa Đại đình) và tiếp tục xây thêm ống muống và Hậu cung. Do vậy, hiện nay mặt bằng tổng thể đình được kết cấu hình chữ "Công" (bao gồm: Đại đình, ống muống, Hậu cung).

Với diện tích 10,9 x 26,0 m, Đại đình được kết cấu với 5 gian 2 chái, 1 tầng 4 mái, 6 hàng chân cột. Như vậy, đình Quan Đình được dựng vào năm 1773 cho đến nay đã qua nhiều lần tu sửa, nhưng vẫn còn giữ lại được nguyên những hiện trạng của lần khởi dựng ban đầu, với những mảng chạm khắc trang trí ở vì nách, bảy hiên, vì hồi.

Đình làng ngoảnh hướng Tây Nam nhìn ra dòng sông thiếp xưa, một con sông cổ chảy trên một vùng đất cổ, một thời rợp bóng tinh kỳ, thuyền bè ngược xuôi tấp lập về kinh thành Cổ Loa. Ngôi đình cổ đứng bên dòng sông cổ đã gợi cho ta những huyền thoại ngời sáng về sự vất vả khó nhọc và đức hy sinh cả của tổ tiên, của dân tộc trong thời kỳ dựng nước và giữ nước . 

Hình dáng ngôi đình gợi cho người tham quan sự hấp dẫn bởi cái bề thế, rộng rãi của nó, bởi các họa tiết trang trí cổ kính và đặc biệt những nụ cười đã được các nghệ nhân dân gian đã gắn với những con giống, làm cho ngôi đình thực sự gần gũi và dân dã.

Với Đao đình lượn cong hình cánh cung, mái ngói rêu phong mềm mại, nóc đình không theo mô tuýp như những ngôi đình khác, mà bờ giải, bờ nóc được tạo hình hoa chanh cách điệu thông thoáng và vững chắc. Theo một số cuốn sách để lại, Đình nguyên xưa có ba tòa: Tòa Tiến Tế, Tòa Đại đình và hậu cung.

Ngày nay tòa Tiền tế không còn nhưng dấu ấn vân còn để lại là nền nhà của tòa Tiền tế, với giải bờ bao quanh, bó gạch với các hàng chân tảng bằng đá xanh, minh chững cho thấy đây là một ngôi nhà dài tới bảy gian, với 25,8 mét., lòng rộng 7m60 và có diện tích gần 200 m2.

Dẫu tòa Tiền tế đã mất, Tòa Đại đình còn lại hiện nay có quy mô thật rộng lớn, đồ sộ, bước vào cửa đình chúng ai cũng phải choáng ngập trước cái mênh mông của không gian nội thất, cái vững chắc của lối kiến trúc cổ, cái tinh xảo của họa tiết trang trí bằng trạm gỗ.

Chiều dài trong lòng của Tiền đình là 25,8m, chiều rộng tới 10m70. Nếu tính cả hiên và tường phủ bờ hai đầu hồi và tường hậu, tòa Đại đình dài 26,6m, rộng 12,2m. Nếu vậy tính cả hậu cung, ngôi đình có diện tổng diện tích là 418m2. 

Trong làng không ai còn nhớ được niên đại của ngôi đình, duy nhất chỉ còn một cái nóc gian cạnh tòa Đại đình ghi lại được năm sửa chữa là năm cảnh hưng thập tứ thiên (1753). Theo một số tài liệu nghiên cứu, Căn cứ vào phong cách điêu khắc của các đầu dư, các bức cốn, các con trồng, và lối kiến trúc đầu đình cho rằng ngôi đình có thể được xây dựng vào thế kỷ 17, thời kỳ mà xuất hiện khá nhiều ngôi đình đẹp ở xứ Kinh Bắc. 

Về điêu khắc, trừ có hệ thống xà dọc, thì tất cả sáu vì của năm gian tòa Đại đình, từ cốn, đầu dư, con trồng, cửa võng đều được trạm lộng tuyệt vời, với những tác phẩm điêu khắc gỗ rất độc đáo.

Bằng bàn tay và trí óc, nghệ nhân dân gian đã tận dụng từng khoảng gỗ nhỏ để thể hiện tài hoa của mình. Tất cả hòa hợp lại, bổ xung cho nhau, họa tiết này tôn thêm vẻ đẹp của họa tiết kia, tạo nên sự phong phú và đa dạng, phối hợp rất ăn ý với kết cấu kiến trúc chồng dấu, làm cho ngôi đình trở thành một công trình nghệ thuật kiến trúc hoàn chỉnh, cổ kính.

Ở đình Quan Đình, ta còn bắt gặp nhiều bức điêu khắc độc lập, không gian nằm trong bốn con vật tứ linh; Bông hoa sen cách điệu ở vì thứ 5 phía sau, hổ nằm ở vì thứ 2 phía sau, nghê cười trên xà ngang hồi bên phải, cá chép ngậm hoa sen ở vì phía sau… Đây là những bức tranh độc lập, mang một chủ đề riêng biệt, những đường nét chạm khắc thật khéo léo, mềm mại thể hiện một nghệ thuật trang trí điêu luyện, làm tăng tính hấp dẫn khi đến thăm đình.  

Bên cạnh những họa tiết điêu khắc trang trí truyền thống của dân tộc, ta còn bắt gặp ở ngôi đình một số hình ảnh mang dáng dấp của văn hóa Chàm như điêu khắc ma ca ra cách điệu trên con rồng đằng trước … Những bức trạm khắc này mang đến cho ngôi đình một vẻ cổ kính, sinh động hấp dẫn, minh chứng rằng nhân dân Quan Đình, người chủ sáng tạo ra ngôi đình đã có sự tiếp thu, chọn lọc văn hóa khá tinh tế. 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

Đình Quan Đình là công trình kiến trúc cổ, vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị nghệ thuật sâu sắc. Giá trị lịch sử ở đây cũng như bao ngôi dình khác ở Bắc Ninh – Kinh Bắc và trên khắp đất nước ta.

Đó là nơi lưu giữ nhiều tài liệu hiện vật có giá trị phản ánh về việc thờ phụng những vị thần có công với nước với dân: Thần tích, Sắc phong, bài vị, câu đối, hoành phi, đại tự. Giá trị kiến trúc, điêu khắc của đình đặt trong bối cảnh điêu khắc kiến trúc chung của quê hương – đất nước là một công trình khá điển hình. 

Với những giá trị cơ bản đó, đình làng Quan Đình đã được nhà nước công nhận xếp hạng, cấp bằng di tích lịch sử văn hóa ngày 21 tháng 01 năm 1998.  Tất cả những điều ấy là dấu ấn tuyệt vời cho các thế hệ mai sau hiểu và cảm được không khí sinh hoạt của cộng đồng làng xã thời xưa, đồng thời là bản sắc của nền kiến trúc cổ Việt Nam – một bản sắc văn hóa và lịch sử sâu sắc nhất.

Cứ vào dịp đầu xuân hàng năm, ngay 10 tháng giêng âm lịch tại đình làng người dân trong làng lại tưng bừng đón hội, người dân trong làng lại lên đình thắp hương tế lễ nhộn nhịp, cầu mong Thành Hoàng và Trời Đất giúp cho mưa thuận gió hòa, cày cấy, làm ăn thuận tiện và có nhiều phúc lành. 

Mùa xuân đến, sân đình trở thành nơi diễn ra nhiều trò chơi dân gian như: Chơi cờ người, đấu vật, chọi gà, múa hát giao duyên…thu hút đông đảo quần chúng nhân dân địa phương vào những sinh hoạt văn hóa văn nghệ vui tươi lành mạnh sau những ngày mùa lao động vất vả. 

Với những nét văn hóa đậm đà bản sắc của một vùng quê Việt Nam giàu truyền thống, Đình làng Quan Đình đã trở thành một công trình kiến trúc nghệ thuật lâu đời, là những thiết chế văn hóa cộng đồng sâu sắc, ở đó đã kết tinh sự cổ kính, trù phú và văn hiến lâu đời của làng quê Quan Đình.

Chùa làng Quan Đình

Chùa làng Quan Đình xưa thuộc tổng Mẫn Xá, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh). Chùa có niên đại khởi dựng từ lâu đời, sang thời Lê Trung Hưng được mở rộng với quy mô lớn gồm nhiều hạng mục công trình kiến trúc cùng hệ thống tượng phật đồ sộ.

Chùa làng Quan Đình còn có tên chữ là “Kim Cương tự”, nằm chung khuôn viên với đình làng, mặt chính hướng Tây Nam, toàn bộ công trình kiến trúc hiện nay gồm các hạng mục: Tam quan, Tam bảo, nhà Tổ, nhà Mẫu... Toà Tam bảo là công trình khá đồ sộ có mặt bằng kiến trúc hình chữ Đinh, liên kết 7 gian Tiền đường và 3 gian Thượng điện. Bộ khung chịu lực làm bằng gỗ tứ thiết, liên kết giữa các bộ vì kèo kết cấu theo kiểu “con chồng giá chiêng”, “tiền bẩy hậu bẩy”.

Vẻ ngoài của chùa làng Quan Đình xưa. 

Nghệ thuật chạm khắc tập trung chủ yếu ở hệ thống bẩy tiền trang trí họa tiết hoa văn mây lửa mang phong cách nghệ thuật thời Lê - Nguyễn. Tại chùa làng Quan Đình hiện còn lưu giữ được nhiều di vật cổ có giá trị về mặt lịch sử, văn hóa và mỹ thuật, tiêu biểu như: hệ thống tượng Phật phong phú, đa dạng chất liệu bằng gỗ sơn son thếp vàng, phần lớn có niên đại thời Nguyễn. Các bức đại tự, câu đối, hương án gỗ, nồi hương gốm sứ, nồi hương đồng.

 
 
 
 
 
 
 
 
 

Trong đó đặc biệt giá trị nhất là quả chuông đồng “Kim Cương thiền tự”, đúc vào năm 1794 dưới thời Tây Sơn hiện đang treo tại tam quan chùa Kim Cương. Chuông màu xanh gỉ đồng có kích thước khá lớn cao toàn bộ 105cm (riêng quai cao 26cm), đường kính miệng 56cm, chu vi thân 147cm. Quai chuông là một đôi bồ lao đấu lưng vào nhau 4 chân ôm lấy thân chuông, đuôi hướng lên phía trên đỡ quả hồ lô.

Bảng sơ lược lịch sử của chùa.

Bồ lao có đầy đủ các bộ phận như: râu, tóc, sừng, đao lửa, miệng há rộng ngậm ngọc, thân và chân có vẩy. Vai chuông hơi vuông, thân phình, miệng loe rộng, gờ miệng giật cấp bề mặt để trơn không trang trí. Toàn thân chuông chia làm 8 ô (4 trên, 4 dưới), ngăn cách giữa các ô là những đường chỉ nổi (gân chuông) gồm 5 đường ngang và 5 đường dọc, đường ở giữa to hơn hai đường bên cạnh. Xung quanh thân chuông (vị trí đường gân ngang) có 4 núm đánh đối xứng nhau hình tròn nổi cao, đường kính 11,5cm, mỗi núm đính 22 hạt tròn.

Trên vai chuông khắc chìm 4 chữ Hán lớn: ‘‘Kim Cương thiền tự’’ và bài minh chữ Hán, tất cả khoảng hơn 200 chữ, kiểu chữ chân phương còn rất rõ nét. Nội dung toàn bộ bài minh được dịch như sau: “Bài minh ghi chép hoàn thành việc đúc chuông chùa Kim Cương. Từng nghe! Từ khi Đức phật Giác Hoàng cầu hiền đã lưu truyền sự tích thánh Không Lộ cùng sự tích An Nam tứ khí trên đất Việt ta.

Trong chùa âm thanh của chuông được tôn trọng làm pháp hiệu để thỉnh đức Phật cứu giúp cõi trần tục. Nghe thấy âm thanh của chuông là để giác tỉnh, tu niệm, hạnh ngộ được nhân tâm. Công việc đúc chuông được hoàn thành thuận lợi nhờ vào sự kết hợp hài hòa giữa lòng người, tiền của, công sức, tất cả mọi việc đều được an toàn, đến khi xong việc lại thiết đàn cáo tế sự đã thành.

Đức Phật, thánh thần phù trì, âm dương soi xét nên việc nấu đồng đúc chuông đã hoàn thành viên mãn đến vạn cổ còn tồn tại, thiên thu vững bền phúc ấm, người người được hưởng vui mừng phồn thịnh. Nghe rằng các vị Quan viên, Sắc mục, Trùm trưởng cùng toàn thể lớn bé trên dưới tại hai thôn Phù Xá, Nghiêm Xá, xã Lan Đình, huyện Đông Ngàn cùng hưng công đúc chuông.

Trụ trì bản tự Chiếu Đăng hưng công đúc chuông. Vũ phần Đội trưởng Đông Minh hầu người huyện Đông Ngàn hưng công đúc chuông và các vị Thái ông, Lão bà, Thiện nam, Tín nữ cùng hưng công đúc chuông”. Phần cuối là dòng lạc khoản cho biết chuông được đúc vào ngày 17 tháng 3 năm Cảnh Thịnh 2 (1794).

Quả chuông đồng ở chùa làng Quan Đình là một di vật cổ quan trọng đóng góp cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về loại hình chuông đồng đúc vào triều Tây Sơn (1788 - 1802) còn bảo lưu được đến ngày nay.

Tỉnh Bắc Ninh hiện có số lượng chuông đồng đúc dưới thời Tây Sơn 20 quả. Điều này góp phần minh chứng Bắc Ninh là địa phương có mật độ phân bố chuông thời Tây Sơn khá “đậm đặc” so với các tỉnh khác trên vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ.

Hà Trang

Nguồn: Khoảng khắc Việt

Ths Nguyễn Thy Ngà

Trở về đầu trang
   Đình Quán Đình nhị thánh Tam Giang Cao Sơn Đại vương Yên Phong Bắc Ninh
2   Tổng số:2 lượt

Các tin khác

  • Đình Thanh Sơn, thờ phụng Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát và Châu Lan Đại vương
  • Nghệ thuật kiến trúc đặc sắc của Đình đá Tiên Phong
  • Hà Nam: Đình Quan Phố đón nhận Bằng xếp hạng Di tích cấp quốc gia
  • Đình Quan Phố và những nét kiến trúc nghệ thuật độc đáo
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật
  • Di tích đền phủ Ninh Xá ở Nam Định nơi lưu giữ 28 đạo sắc phong
  • Đình Nghĩa Chỉ, Tiên Du, thờ phụng Phùng Hưng và hai vị thủy thần
  • Đình, nghè Mai Động, thờ phụng Đô úy Tam Trinh triều Nhị vua Hai Bà Trưng
  • Đình Tây Đằng – Bảo tàng nghệ thuật kiến trúc thế kỷ 16
  • Di tích phòng tuyến sông Như Nguyệt - Địa danh gắn với chiến thắng lịch sử chống quân Tống
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Long An phát triển du lịch qua di tích lịch sử - văn hóa

    165
  • Quảng Nam: Tây Giang hướng đến phát triển du lịch xanh

    121
  • Hải Dương: Phường rối nước Thanh Hải được công nhận là điểm du lịch

    118
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật

    113
  • Cung đường mới - động lực lớn cho phát triển du lịch hồ Ba Bể (Bắc Kạn)

    107

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2025 Trang thông tin du lịch