Đình Phú Đô thuộc phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, thờ phụng thất vị thành hoàng là Lý Thiên Bảo (anh trai vua Lý Nam Đế), tướng Đinh Lễ nhà Lê, Đinh Dự là con Đinh Lễ cùng vợ là Mãn Đường Hoa, hai bà hoàng là Nguyễn Thị An – Hoàng hậu vua Lê Anh Tông, Nguyễn Thị Phương là Nguyên phi, ông Hồ Nguyên Thơ, Tổ nghề bún của Phú Đô.
Theo thần phả của đình và lưu truyền trong nhân dân thì đình
Phú Đô thờ Lã Nam Đế (Lý Thiên Bảo) và Đinh Lễ, thời chống quân Minh đã cùng với
Nguyễn Xí hoạt động quân sự ở vùng này. Đình còn thờ Đinh Dự là con của Đinh Lễ
cùng vợ Đinh Dự là Mãn Đường Hoa, là hai tổ sư của nghề ca trù mà nhiều nơi thờ
phụng.
Đình còn thờ hai bà hoàng người làng Phú Đô là Nguyễn Thị An
– Hoàng hậu vua Lê Anh Tông cùng Nguyễn Thị Phương là Nguyên phi. Sau cùng
là thờ ông Hồ Nguyên Thơ – Tổ nghề bún của Phú Đô. Như vậy, đình Phú Đô không
chỉ thờ một vị Thành hoàng mà có tới 7 vị khác nhau.
Đình gồm có Tam quan, Phương đình, Đại đình, Hậu cung và Tả,
Hữu mạc. Phương đình làm kiểu chồng diêm, các góc mái uốn cong, tám mái, trên đỉnh
đắp 4 con phượng, có 4 cột gỗ lim to và 12 cột quân xây bằng gạch. Vì kèo kiểu
chồng rường ở trên và các xà nách, cốn kẻ, xà đại ở dưới. Các chủ đề chạm trổ
chính là tứ linh, tứ quý.
Đại đình gồm 5 gian 2 dĩ, xây kiểu bít đốc, hai đầu nóc đắp
2 con kìm kiểu đầu rồng. Vì kèo Đại đình theo kiểu “thượng rường hạ kẻ”, mái
phân thượng tam, hạ tứ trên 4 hàng chân.
Các mảng chạm trổ trang trí ở Đại đình chủ yếu tập trung 2 vì
gian giữa với các chi tiết vân mây và cúc tùng, cúc hoá long. Chính diện Đại
đình còn có cửa võng chạm rồng chầu mặt trời. Nền lát gạch bát cổ.
Hậu cung nối với gian giữa Đại đình kết cấu kiểu chuôi vồ, gồm
3 gian xung quanh xây tường bao, các vì kèo Hậu cung làm 2 kiểu - một kiểu “thượng
rường hạ bẩy” và một kiểu “thượng kèo hạ bẩy” trên 4 hàng chân. Trong Hậu cung
đặt ngai thờ ngài Lý Thiên Bảo ở chính giữa, bên phải thờ Thánh Cả và giá hương
thờ Đinh Dự. Bên trái đặt ngai thờ bà Hoàng thái phi An Nhân và bà Tuyên phi
Nguyễn Quý Tân.
Ngoài phần kiến trúc và nghệ thuật chạm khắc, đình còn giữ
được thần phả về sự tích Lý Thiên Bảo và tổ sư giáo phư Có 12 đạo sắc phong (3
thời Lê và 9 thời Nguyễn). Đồ gỗ thờ có bộ bát bửu, hương án, ngai, ngựa thổ và
các bức đại tự, câu đối, kiểu bành, kiệu đình, hạc...
Lã Nam Đế Lý Thiên Bảo là anh trai của vua Lý Nam Đế. Năm
546, vua Lý Nam Đế phản công quân Lương ở hồ Điển Triệt bị Trần Bá Tiên đánh bại.
Vua lui binh về động Khuất Lạo, bị bệnh và mất. Lý Thiên Bảo và viên tướng cùng
họ là Lý Phật Tử mang 3 vạn quân vào đánh Đức Châu (Nghệ An), giết chết thứ sử
nhà Lương là Trần Văn Giới.
Trần Bá Tiên mang quân vào đuổi đánh, Lý Thiên Bảo và Lý Phật
Tử thua trận, thu nhặt tàn quân chạy sang đất người Di Lạo ở Ai Lao. Thấy động
Dã Năng ở đầu nguôn Đào Giang, đất phẳng rộng màu mỡ có thể ở được mới đắp
thành, nhân tên đất ấy mà đặt quốc hiệu là Dã Năng.
Lý Nam Đế trước khi mất ở Khuất Lạo trao lại binh quyền cho
tướng Triệu Quang Phục. Trong khi Phục cầm binh chống Trần Bá Tiên, Lý Thiên Bảo
cố thủ ở Dã Năng thuộc Ai Lao. Năm 550, ông được nhân dân trong vùng tôn làm
chúa, tự xưng là Đào Lang Vương. 5 năm sau, Đào Lang Vương mất không có con nối.
Thành hoàng làng thứ hai của Phú Đô là Đinh Lễ. Ông là khai
quốc công thần nhà Lê Sơ, người Thùy Cối, nay là Lam Sơn (Thanh Hóa). Ông tham
gia nghĩa quân Lam Sơn từ buổi đầu, lập nhiều chiến công, với chiến tích ở trận
Tốt Động, Chúc Động được sử gia Ngô Sỹ Liên đánh giá cùng với Lý Triện là những
vị tướng giỏi nhất của nghĩa quân Lam Sơn. Đinh Lễ cũng là cháu gọi Lê Lợi bằng
cậu.
Tổ nghề ca trù
Các cao niên làng Phú Đô còn bật mí, làng không chỉ nổi tiếng
với nghề làm bún mà còn từng là làng ca trù. Bởi vậy, khách xa đến làng không
nên lạ khi thấy hai vợ chồng tổ ca trù được thờ làm Thành hoàng.
Còn theo nhà nghiên cứu Hoàng Minh Hồng, thì tất cả các làng
có nghề hát ca trù đều thờ vợ chồng tổ nghề là Đinh Dự và Mãn Đường Hoa công
chúa. Bản thần tích do Đông Các Đại học sĩ Đào Cử vâng mệnh vua Lê Thánh Tông
soạn năm Hồng Đức thứ 7 năm 1476, ghi:
“Về đời vua Lê Thái Tổ có người họ Đinh tên Lễ, người động
Hoa Lư, huyện An Khánh, phủ Trường Yên, đạo Thanh Hoa (tức Thanh Hoa ngoại trấn,
nay thuộc tỉnh Ninh Bình ) theo vua Lê dấy nghĩa ở Lam Sơn.
“Kiệu bay” là nét đặc
sắc trong lễ hội Phú Đô.
Vợ ông là Trần Thị Minh Châu, vốn dòng thi lễ, một đêm nằm
mơ thấy con rắn xanh lọt vào lòng, rồi mang thai. Đến ngày mồng sáu tháng tư
năm Quý Tỵ 1413 sinh một trai diện mạo khôi ngô đặt tên là Đinh Dự. Khi Đinh Lễ
đem quân đánh giặc Minh đã dựng đồn trại ở lang Lỗ Khê, huyện Đông Ngàn, xứ
Kinh Bắc.
Đinh Dự học vấn tinh thông, cầm kỳ thi họa hơn người. Một
hôm Đinh Dự đến chỗ cha đóng quân, thăm chùa Thiên Thai gặp thiếu nữ Đường Hoa
sắc đẹp như tiên. Hai người kết duyên chồng vợ. Có lần vua mắc bệnh nặng, hai vợ
chồng đến đàn hát cho vua nghe, vua khỏi bệnh nên phong cho chức tước cùng bốn
chữ “Sinh từ tự điển”, nghĩa là “được thờ khi còn sống”.
Cụ Nguyễn Tiến Nghĩa cho biết thêm: Phú Đô còn thờ hai bà
chúa có công chấn chỉnh giáo phường Nguyễn Thị Phương và Nguyễn Thị An con gái
ông Nguyễn Duy Tình người làng. Hai cô vốn xinh đẹp, hát hay. Một hôm cô Phương
vào vùng “Thập tam trại” trong thành Thăng Long cắt cỏ, tình cờ gặp một vị
hoàng thân trong triều Lê và kết làm vợ chồng.
Sau này vị hoàng thân lên ngôi, là vua Lê Anh Tông. Bà
Phương được phong là Hoàng hậu, bà em làm Nguyên phi. Hai người trở về làng dạy
trai gái trong dòng họ Nguyễn hát ca trù.
Còn một vị Thành hoàng nữa của làng Phú Đô là tổ nghề làm
bún tên là Hồ Nguyên Thơ. Tuy nhiên, không ai rõ ông sống ở thời nào, công tích
sự nghiệp ra sao.
Nhà nghiên cứu Hoàng Minh Hồng khẳng định, người sáng lập
hay gây dựng nên một nghề hoặc là người thứ nhất đem nghề ở nơi khác truyền lại
cho dân chúng được người đời sau tôn thờ như thánh. Ông Hồ Nguyên Thơ là người
đưa nghề bún về làng Phú Đô.
“Để tỏ lòng biết ơn công lao của 7 vị Thành hoàng làng, cứ 5
năm chúng tôi lại tổ chức rước Thánh từ mùng 8 đến mùng 9 Tết âm lịch. Lễ rước
lớn được tiến hành từ đình làng xuống bãi Tế Yến. “Kiệu bay” là nét đặc sắc của
lễ hội Phú Đô”.
Cụ Nguyễn Tiến Nghĩa,
Thủ từ đình Phú Đô cho biết:
Đình đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích lịch sử,
kiến trúc nghệ thuật năm 1992./.