• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
Văn hóaGiá trị lịch sử
  • UKEnglish

Giá trị lịch sử

Miếu Chính, xã Thụy Trình thờ phụng Tứ vị thành hoàng làng Quảng Nạp

Cụm di tích lịch sử văn hóa miếu Chính, đình Cả xã Thụy Trình, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình thờ 4 vị thành hoàng làng Quảng Nạp là Hồ Đại Mạnh Đô Đại tướng quân đại vương, Uy Linh Lang hiển ứng đại vương, Nam Hải Trừng Thanh cảm ứng đại vương, Bắc Cực Diên Thọ hiển hựu đại vương triều đại nhị vua Hai Bà Trưng.

Miếu Chính còn được gọi là đền Cây Sanh là một công trình kiến trúc cổ to lớn, bề thế được xếp vào hàng lớn nhất huyện Thụy Anh xưa. Miếu được xây dựng vào thời Lê, trùng tu vào thời Nguyễn; đình Cả xây năm Giáp Dần, đời vua Tự Đức (1854) trùng tu năm Thành Thái thứ 12 (1900); đặc biệt ở trước đình Cả còn giữ được tòa phương đình là một công trình kiến trúc đẹp - một trong 2 phương đình duy nhất còn lại ở Thái Thụy (cùng với phương đình ở đình Tử Các, xã Thái Hòa).

Miếu Chính được xây dựng ở thôn Đông, làng Quảng Nạp; miếu có hai cổng ở phía Đông và phía Tây, cả hai cổng đều xây cao hai tầng, mái cong, đao guột; mái thượng đắp ngạc long ngậm đại bờ, bờ cong đắp nghê thần, đầu đao đắp lá lật; mái hạ đầu đao vút cong, kết hợp với hoa văn trên mái thượng tạo thành một tổng thể hài hoà, đẹp mắt.

Khu thờ tự của miếu Chính có hai tòa, tổng cộng 8 gian, kết cấu theo hình chữ đinh. Cả hai tòa đều xây bằng gạch thời Lê - loại gạch bản rộng khoảng 15 cm, dày khoảng 10 cm, có độ nung rất cao, trải thời gian vài trăm năm vẫn không bị rêu phong, mùn rỗ; tường miếu chỉ miết vỉa, không trát, phô ra các hàng gạch đều tăm tắp, sáng màu sành. Cả hai tòa đều được xây kiểu mái cong đao guột, rồng chầu phượng múa uốn đầu đao.

Chính giữa bờ nóc tòa Tiền tế đắp nổi hai chữ hán ‘‘Chính Miếu’’, hai bên đắp phượng vũ, kim nóc đắp ‘‘ngạc long ngậm đại bờ’’, khúc gấp bờ cong đắp song nghê phụ tử. Bộ khung chịu lực của tòa Tiền tế làm bằng gỗ lim, trên xà ngang của gian chính giữa có khắc dòng chữ Hán ghi lại niên đại miếu ‘‘Hoàng triều Thành Thái thập tam niên hạ giải trùng tu, tuế thứ Tân Sửu thập nhị nguyệt cửu nhật thụ trụ thượng lương’’ (Hạ giải để trùng tu và tháng 10 năm Thành Thái thứ 13, đặt nóc vào ngày 19 tháng 12 năm Tân Sửu - 1901).

Trong lần trùng tu này, gần như tất cả cấu kiện gỗ trong miếu Chính (trừ hệ thống cột chịu lực) đều được chạm khắc hoa văn, có khi cùng một đề tài trang trí nhưng mỗi mảng chạm lại mang một sắc thái riêng, tạo thành một tổng thể đa dạng nhưng rất hài hòa, thống nhất.

Điều này thể hiện rõ nhất trên hoa văn trang trí ở hệ thống bẩy hiên tòa Tiền tế; các thanh bảy chạm khắc theo 4 đề tài: Rồng, lá lật hóa rồng, phượng vũ, sen rùa. Tuy lấy rồng làm đề tài trang trí song rồng trên mỗi má bảy lại có một sắc thái riêng, ở thanh bảy này chạm rồng mây, thanh kia chạm rồng cuộn, thanh khác lại chạm cảnh cá chép hóa rồng...

 Phía trong nội thất các vì nóc, vì nách đều chạm khắc dày đặc hoa văn, các đường nét chạm nổi, chạm bong kênh đã tạo nên sự đa dạng cho các bức chạm. Hai vì nóc giữa phía trên chạm hổ phù, phía dưới chạm vân mây, xà ngang chạm nổi hoa văn lá lật, đặt trên hai đầu dư chạm lỗng đầu rỗng.

Ở hai vì nách tiền, hậu phía trên chạm phượng vũ, chính giữa chạm long cuốn thủy, nghé đỡ phía dưới chạm các con nghê thần trong tư thế đầu cúi thấp, cong lưng dồn sức gánh hệ thống xà dọc.

Hai vì nóc gian bên cạnh chạm nổi lưỡng long chầu nhật, các vì nách đều làm kiểu chồng rường, chạm hoa văn lá lật, đường nét chạm trổ tinh tế sống động, có cảm giác như các thanh rường là một thể thống nhất, ở đó các lá cây của cùng một gốc đang thỏa sức vươn dài từ xà nách, qua các thanh rường vượt lên thân cột. So với tòa Tiền tế, tòa Hậu cung miếu Chính còn được chạm trổ cầu kỳ, tỷ mỉ hơn rất nhiều, mỗi vì kèo đều trở thành một tác phẩm điêu khắc hoàn mỹ.

Bộ vì ngăn cách giữa tòa Tiền tế và tòa Hậu cung làm kiểu ván mê. Vì nóc chạm lưỡng long quán nhật, xung quanh chạm mây cuộn, hai vì nách chạm rồng trong tư thế thân uốn lượn, đuôi xoắn vòng tròn vút lên cao, đường nét chạm trổ mềm mại, nghệ thuật điêu khắc tinh xảo khiến cho các chi tiết trên rồng từ râu, bờm cho đến thân thể đều uyển chuyển như một thực thể đang hoàn toàn thả lỏng, nhẹ nhàng bay lên những vầng mây.

Bộ vì thứ hai làm theo kiểu ván mê, đặt trên một thanh xà ngang chạm khắc hoa văn lá lật. Chính giữa ván mê chạm nổi hổ phù, mắt trợn tròn, nhe răng dữ tợn, phía trên chạm rồng đang ẩn mình trong các áng mây, đầu vươn cao, chầu vào trung tâm đỡ một mặt trời. Hai vì nách chạm cảnh nghê chầu phượng vũ, bổ sung thêm cho vì nóc để bộ vì này trở thành một tổng thể, một bức tranh linh thú hoàn mỹ.

Bộ vì thứ ba cùng làm kiểu ván mê, lấy hoa văn lá lật và hoa lá làm đề tài trang trí chủ đạo, lá lật ở đây được trang trí ở phía trên các vì nóc, phía dưới xà ngang, đề tài chính ở đây chạm cảnh các chú rùa đang cõng các pho sách, nô đùa trong một ao sen.

Trong Hậu cung miếu Chính treo hai bộ cửa võng. Bộ cửa gian bên ngoài chính giữa trán cửa chạm một bông cúc lớn nở hoa rực rỡ, hai bên cạnh chạm đan xen các cành cúc, đào uốn khúc mềm mại, trổ ra những bông hoa nhỏ xinh rung rinh trong gió, khoe sắc tỏa hương; hai thân cửa bên cạnh chạm hoa văn lá lật hóa rồng, nét chạm to, khỏe, phóng khoáng tạo thành một vẻ đẹp mạnh mẽ đối diện hoàn toàn với vẻ đẹp nhẹ nhàng, thanh thoát trên trán cửa.

Bộ cửa võng ở gian trung tâm, chính giữa chạm hổ phù, bên cạnh chạm hai con rồng thân uốn khúc, đầu nhô cao, râu tóc dữ tợn, chầu về phía hổ phù. Phần thân cửa chạm hai con rồng trong tư thế đầu chúc xuống dưới, thân uốn khúc, đuôi xoắn vút lên cao. Ở cửa bộ võng này, hình ảnh hổ phù dùng để thay thế mặt nhật, vẻ dữ tợn của hổ phù và những con rồng tạo lên sự uy linh trong nơi ngự của các thành hoàng.

Tất cả các mảng chạm khắc trong miếu Chính đều được chạm kênh, bong, các nét chạm sâu vào bên trong khối gỗ tạo thành chiều sâu không gian, có hiệu quả rất cao về tương phản sáng, tối tạo ra sự uyển chuyển sinh động, cảm giác nhẹ nhàng, thanh thoát mà không làm ảnh hưởng đến kết cấu của công trình.

Sự tinh tế trong kỹ thuật chạm khắc trên kiến trúc kết hợp với vẻ đẹp tinh tế của các đồ thờ tự sơn son thếp vàng đặt ở dưới đã tạo cho không gian nội thất miếu Chính một vẻ đẹp lung linh, thâm nghiêm mà kỳ ảo rất hiếm gặp.

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

Năm 1997, cụm di tích đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Ngày 31 tháng 10 năm 2011, miếu Chính xã Thụy Trình, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình vinh dự được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ký quyết định số 3494/QĐ-BVHTTDL cấp bằng xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia cho tiêu chí Công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc cần bảo tồn.

Đây là cụm di tích lịch sử cấp Quốc gia thứ 29 ở Thái Thụy.

Nguồn: Cổng thông tin điện tử Huyện Thái Thụy

Trở về đầu trang
   miếu Chính đình Cả xã Thụy Trình huyện Thái Thụy tỉnh Thái Bình thờ phụng tứ vị thành hoàng triều đại Hai Bà Trưng
0   Tổng số:

Các tin khác

  • Đình Thanh Sơn, thờ phụng Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát và Châu Lan Đại vương
  • Nghệ thuật kiến trúc đặc sắc của Đình đá Tiên Phong
  • Hà Nam: Đình Quan Phố đón nhận Bằng xếp hạng Di tích cấp quốc gia
  • Đình Quan Phố và những nét kiến trúc nghệ thuật độc đáo
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật
  • Di tích đền phủ Ninh Xá ở Nam Định nơi lưu giữ 28 đạo sắc phong
  • Đình Nghĩa Chỉ, Tiên Du, thờ phụng Phùng Hưng và hai vị thủy thần
  • Đình, nghè Mai Động, thờ phụng Đô úy Tam Trinh triều Nhị vua Hai Bà Trưng
  • Đình Tây Đằng – Bảo tàng nghệ thuật kiến trúc thế kỷ 16
  • Di tích phòng tuyến sông Như Nguyệt - Địa danh gắn với chiến thắng lịch sử chống quân Tống
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Long An phát triển du lịch qua di tích lịch sử - văn hóa

    163
  • Quảng Nam: Tây Giang hướng đến phát triển du lịch xanh

    120
  • Hải Dương: Phường rối nước Thanh Hải được công nhận là điểm du lịch

    117
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật

    112
  • Cung đường mới - động lực lớn cho phát triển du lịch hồ Ba Bể (Bắc Kạn)

    104

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2025 Trang thông tin du lịch