• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
Văn hóaGiá trị lịch sử
  • UKEnglish

Giá trị lịch sử

Thần tích các thánh vương, em Sơn thánh Tản Viên

Thần Cao Sơn và Quý Minh là vị tướng có tài thao lược, văn võ song toàn do có công giúp vua Hùng Duệ Vương cùng với Tản Viên Sơn Thánh có công dẹp giặc Thục nên đã được Vua Hùng tặng thưởng công lớn. Sau khi các vị này qua đời, nhà vua ra lệnh cho nhiều nơi trong nước trong đó có xã Khôi Kỳ (Đại Từ) ngài đóng quân và đi qua đều được lập đền thờ.

Thần tích và nơi thờ phụng Cao Sơn đại vương, Quý Minh đại vương

Đình Hạ Bì Trung, Xuân Lộc, Thanh Thủy Phú Thọ, nơi thờ phụng Tam vị Tản Viên Sơn Thánh

Theo "Sự tích Quý Minh Đại Vương ở xã Đồng Du" (Bình Lục, Hà Nam), Ngài tên là Tuấn, tên chữ là Quý Minh, là em thần Tản Viên. Ngài tự cửa bể Thần Phù về đến Long Đỗ (nay là Hà Nội) bến Đông Hải, nghỉ ngơi rồi hiển thánh ở đó. Phố ấy lập miếu phụng sự, đời sau sắc phong Thượng Đẳng Thần.

 

Còn thần tích Quý Minh Đại Vương lưu ở đền thờ Thần Cao Sơn thôn Lỗi Sơn, xã Gia Phong và đền Trung ở thôn Sinh Dược, Gia Sinh (xã Gia Viễn, Ninh Bình) cũng ghi rõ: "Cao Sơn và Quý Minh là anh em cùng Tản Viên Sơn Thánh, đã về lập hành doanh ở vùng này để chống nhau với Thục Phán sau khi Thục Phán tiến hành xâm lược nước Văn Lang của Hùng Vương thứ 18".

Quý Minh được phong thần, gọi là Hiển Công tả thiên thần Quý Minh. Tại Diên Sí Sơn (Núi Cánh Diều) ở cố đô Hoa Lư cũng thờ Quý Minh Đại Vương, trấn giữ phía đông thành Hoa Lư.

Tại Yên Bái, Quý Minh Đại Vương được thờ chung (Tam vị - ba anh em) ở một số đình, đền (đình Mường A, đình cả Quy Mông, Đại Đồng Vũ Miếu). Hiện tại đình Phúc Hoà, xã Hán Đà, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái còn lưu giữ được ngọc phả về Đài Vàng Quý Minh Đại Vương và các vị thần được tôn thờ bằng văn bản Hán Nôm.

Cao Sơn đại vương thuộc Tam vị Tản Viên Sơn Thánh, ngài có tên là Hiển. Vị thần được thờ ở rất nhiều nơi, trong các vùng Ba Vì (Sơn Tây), vùng sông Tích Giang và các vùng Mường cổ, cũng như nhiều đình làng, thần tích ở nhiều vùng đồng bằng Bắc Bộ khác.

Thần tướng Cao Sơn trong các thần tích đa phần đều có đặc điểm chung là: có tên là Hiển, sống ở thời Hùng Vương thứ 18 (Hùng Duệ Vương), cùng với Quý Minh là em họ của Tản Viên, có công giúp vua Hùng đánh thắng quân Thục. Vị thần này sau này ngự ở ngọn núi bên trái của dãy Ba Vì (Tản Viên đứng giữa, bên phải là Quý Minh).

 

Đền Mẫu Đợi thờ Thần Cao Sơn (Quý Minh đại vương) ở làng Dụ Đại xã Đông Hải huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình để tưởng nhớ công ơn của ngài.

Đền Dĩnh Kế (còn gọi là Nghè Kế, Nghè Cả), thuộc xã Dĩnh Kế, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang, thờ Đức Thánh Cả là Đức thánh Cao Sơn, Quý Minh, theo truyền thuyết là 2 vị tướng của Vua Hùng đã có công đánh đuổi giặc ngoại xâm, mang lại bình yên cho đất nước, khi thác đi luôn phù hộ cho dân làng xã tắc được ấm no. Hàng năm vào dịp rằm tháng Ba âm lịch, ngày Đại kỳ phước, đền Dĩnh Kế là nơi trung tâm diễn ra lễ hội của nhân dân các thôn trong xã.

Đình Vĩnh Ninh thuộc thôn Vĩnh Ninh, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Bắc Giang (trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 thuộc xã Dĩnh Kế, tổng Dĩnh Kế, huyện Phượng Nhỡn, tỉnh Bắc Giang). Ngôi đình được Nhà nước cấp bằng công nhận di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia. Di tích đình Vĩnh Ninh nằm về phía Đông Bắc thành phố Bắc Giang và đầu đường quốc lộ 31 nên đường đi rất thuận lợi cho khách tham quan. Đình Vĩnh Ninh là công trình tín ngưỡng văn hoá tiêu biểu duy nhất của dân thôn Vĩnh Ninh, là nơi thờ hai vị Thánh Cao Sơn-Quý Minh (hai thuộc tướng thời Hùng Duệ Vương). Đình Vĩnh Ninh cùng với các công trình tín ngưỡng văn hoá khác của xã Dĩnh Kế (nghè Cả và chùa Kế) tạo thành một quần thể di tích liên hoàn rất có giá trị. Hội đình Vĩnh Ninh hằng năm được tổ chức vào ngày 19, 20 tháng Giêng.

Đình Bảng thuộc thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh. Được mệnh danh là 'Nhà sàn' giữa miền Kinh Bắc. Đình làng Đình Bảng là một ngôi đình cổ kính nổi tiếng nhất của đất Kinh Bắc, được xây dựng năm 1700, đến năm 1736 hoàn thành, do công đầu của quan Nguyễn Thạc Lượng, người Đình Bảng và bà vợ đảm đang Nguyễn Thị Nguyên quê ở Thanh Hóa đã mua gỗ lim về dâng làng xây dựng. Đình thờ 3 vị thành hoàng: Cao Sơn đại vương (Thần Đất), Thuỷ bá đại vương (Thần Nước) và Bạch lệ đại vương (Thần Trồng Trọt).[5]

Đình Lỗ Hạnh ở thôn Lỗ, xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Đình được dựng vào thời Mạc, năm Sùng Khang thứ 11 (1576). Đình Lỗ Hạnh đã qua nhiều lần tu sửa vào các năm 1694, 1850, và năm 1910 xây thêm hậu cung bằng cách cắt mái giữa, tạo nên mặt bằng hình chữ "đinh" và hai dãy tả vu, hữu vu. Đây là ngôi đình có niên đại sớm thứ hai trong cả nước (chỉ sau Đình Tây Đằng- Hà Tây). Đình thờ thành hoàng là Cao Sơn đại vương, người có công giúp vua Hùng đánh giặc. Đình còn thờ Phượng Duy Công chúa (Bà Chúa Tiên), người đã dạy dân địa phương trồng bầu.

Đình Thụy Hà ở làng Thụy Hà, xã Bắc Hồng, huyện Đông Anh, tp.Hà Nội

Thần Cao Sơn Đại Vương có thể được coi là đã hạ phàm rất nhiều lần từ thời Hùng Vương dựng nước, ngài được coi là một trong 50 người con của Âu Cơ với tên hiệu đầu tiên là Lạc tưỡng Vũ Lâm, con thứ 17 của Lạc Long Quân đời Hùng Vương thứ Nhất, sau đó xuất hiện trong thời vua Hùng Duệ Vương đời thứ 18, hiển thánh Y chữa bệnh đậu mùa cho dân, phụng thờ ở Chí Linh. Thời nhà Đinh cũng có tướng Cao Sơn, danh phụng thờ là Cao Sơn Đại vương, danh tướng Cao Sơn Đại vương, được cho là người Trung Quốc xuất hiện trong thời Hồ Quý Lý, tham gia đánh đổ nhà Hồ và sau đó đi tu ở Trung Quốc, thời nhà Lý với chức “Đô hộ sứ” ở Việt Nam nhưng thường làm phúc cho dân.

Bản dịch của Trương Thị Thuỷ, Hoàng Thúy Ngà, Hoàng Giáp của Viện nghiên cứu Hán Nôm dịch tháng 7/2010 như sau:

"Nước Việt xa, trời Nam mở vận, Thánh tổ xây dựng cơ đồ, 18 đời truyền nối, trải hơn 2000 năm thịnh trị, đời đời cha truyền con nối, đều lấy hiệu là Hùng Vương, ngọc bạch xa thu núi sông thống nhất. Thực là tổ của Bách Việt ta.

Khi đó, cơ đồ đất nước truyền đến đời thứ 18, được 2622 năm, thuộc đời Hùng Duệ Vương. ở động Lăng Sương, huyện Gia Hưng, phủ Hưng Hoá, đạo Sơn Tây có nhà Cha tên là Nguyễn Cao Khang, mẹ Phạm Thị Hương, là nhà tích đức hành thiện, nhưng chưa có con nối dõi.

Khi đó ông Nguyễn Cao Khang đã 60 tuổi, bà vợ gần 50, ông bà chưa từng làm phương hại đến ai, không bao giờ tơ hào phần lợi cho mình, luôn khởi tâm làm điều tốt lành. Ông có người anh trai tên là Nguyễn Cao Hạnh, ngoài 70 tuổi mà cũng không có con. Một hôm, nhân ngày giỗ của tổ tiên, anh em cùng than rằng: "Tội bất hiếu không có con là tội lớn, nếu như sau này chết đi, biết có ai là người hương khói cho tổ tiên, cha mẹ? Nếu có thể tán tài để cầu được con nối dõi thì cũng xin được theo". Thế là bèn đem tiền của phát cho người nghèo.

Đến tết, mùa xuân Thái hoà, khắp nơi hoa nở, người người vui vẻ, anh em rủ nhau lên núi Nghĩa Lĩnh chơi, khi trở về xuống chân núi, bỗng thấy trên núi có một cụ già tóc bạc, đeo một bầu rượu, cầm một chiếc la bàn. Hai anh em nhìn và nói rằng: "Phải chăng đó là tiên lão bồng lai thần linh Tản Lĩnh, chứ không phải người thường? Nhà ta tích thiện thấu tới lòng trời, nay trời xanh giáng tiên ông báo cho biết là nhà chúng ta tích thiện là đúng, không phải nghi ngại gì nữa".

Nói xong, hai ông liền đi đến trước mặt tiên ông nói: "Nay may gặp được tiên ông, nghìn năm hy vọng, chúng tôi đường đột, khiếm nhã xin tha. Anh em chúng tôi đức mỏng, tuổi đã cao mà muộn đường con cháu. Gặp tiên ông ở đây như mây mù gặp ánh sáng, thấy hình dáng tiên ông khác người thường, ắt là có phép thuật thần thánh, một lòng xin tiên ông mở rộng tâm đức, thương xót tới chúng tôi. Vạn lần xin nhờ vào sức của tiên ông".

Cụ già nói: "Ta không phải thần, không phải thánh, là người nhàn hạ, thích thú tiêu dao non nước, xem xét phong thuỷ hoạ phúc thế gian, là người tạo phúc, không có ý gì khác. Nay bọn ngươi gặp ta ở đây, là đức lớn của nhà các ngươi. Ta thấy trên núi Thu Tịch có thế đất rất quý, nếu an táng ở đất đó, không quá 100 ngày sau sẽ sinh ra thánh tử. Các ngươi hãy thu thập hài cốt tiên nhân, bí mật mang tới táng tại đó, chớ để lộ".

Hai ông nghe thấy thế, rất vui mừng, muốn hành lễ bái tạ thì cụ già biến mất. Hai ông trở về nhà, thu hài cốt của cha mẹ an táng tại đó. Xong việc, lập đàn hành lễ cầu đảo trời đất thần linh, xin sớm được ứng điều lành, được ban phúc, đội ơn mưa móc, trông cậy vào sự giúp đỡ của Trời, Thần.

Khấn xong, đêm hôm đó ông Cao Khang mông lung thiếp đi, bỗng thấy một tướng thần cưỡi hổ đen, hai tay ôm hai đứa trẻ từ phía ngoài đi đến chỗ ông nằm, nói: "Nhà ngươi tích thiện, trời đã thấu hiểu nên ban cho hai đứa con, sau này tất có tài giúp nước, an dân". Nói xong, thần tướng bay lên không trung.

Ông Cao Khang tỉnh giấc, biết là nằm mộng, tất có điều lành, ông trời không phụ, phúc địa hưng thịnh. Hai vợ chồng cùng nhau loan phượng yến oanh, cầm sách hoan ca. Từ đó, bà có thai 11 tháng, đến ngày 20/7 sinh ra hai người con trai, diện mạo khôi ngô tuấn tú, giống như hai đứa trẻ trong mộng, thân thể to lớn, tay chân chắc khoẻ. Người cha rất vui vì đã làm điều phúc, ông trời đã ban cho hai con nên đặt tên người anh là Sùng, em là Hiển.

Năm đó, người anh của ông Cao Khang là Nguyễn Cao Hạnh, vợ là Đinh Thị Điêng (Đen) cũng sinh được một con trai, sắc mặt khôi ngô, tướng mạo cao lớn, Nguyễn Hạnh đặt tên là Tuấn. Ba anh em họ thể chất lẫm liệt phi thường, có khí phách anh hùng.

Đến năm 12 tuổi, tìm thầy học đạo, học được vài năm văn chương thông suốt, võ lược tinh thông. Phàm trên từ thiên văn, dưới đến địa lý không gì là không biết, không vật gì là không hiểu. Người đương thời thường nói nhà đó có phúc gì mà sinh những người con văn võ kim toàn, tài giỏi như vậy?

Than ôi! Biến đổi khôn lường, hoạ vô đơn chí! Năm ba ông đến tuổi 22 thì cha mẹ đều qua đời. Ba ông gào khóc đất trời, làm lễ, chọn nơi cát địa an táng, gia đình hương khói thờ phụng ba năm, gia tài đều hết. Từ đó sớm tối sống trong cảnh thiếu thốn, kiếm củi sinh nhai, nhưng vẫn an bần lạc đạo nuôi chí lớn. Một hôm, ba ông đều than rằng: "Bần tiện như vậy, không thể sống được, sao có thể tồn tại được?".

Bèn cùng nhau đi đến núi thiêng Tản Lĩnh làm con nuôi của Ma thị Cao Sơn Thần Nữ, ngày ngày được nuôi dưỡng bằng rau thái, rau tần. Sau được ban cây gậy thần của Thái Bạch Thần Tinh và sách của Long Đình Thuỷ Đế, cứu được hoạ, tạo phúc thế gian, báo đáp công ơn của mẹ nuôi.

Ma thị cho là hiếu tử, bèn lập chúc thư giao ruộng đất, khe suối, kỷ vật núi rừng cho Tuấn Công. Từ đó bèn đổi hiệu là Tản Viên Sơn Thánh. Sơn Thánh chia đất cho hai em: Sùng Công ở Non Sơn, hiệu là Tả Khiên thần, Hiển Công ở Lãng Sơn, hiệu là Hữu Khiên thần.

Lúc đó có giặc Ai Lao, vì nghe tin Hùng Duệ Vương đã già mà 20 hoàng tử và 6 công chúa đã tuyệt tích, không có người nối ngôi, (vua) định sẽ nhường ngôi cho con rể là Tản Viên Sơn Thánh. Bởi thế chúng thừa cơ dấy binh chia làm năm đạo tiến vào. 

Từ biên ải cấp báo về mỗi ngày 5 lần, nhà vua vô cùng lo lắng, vội triệu Sơn Thánh lại để bàn kế. Sơn Thánh tâu rằng:
 
Xin nhà vua gọi hai tướng Cao Sơn, Quý Minh về triều, chỉ huy hai cánh quân thủy bộ đi tuần tiễu các đạo  để dấy thanh khí quân sĩ. Thần xin được lựa chọn tướng tài, không tới một tuần sẽ dẹp yên quân giặc. Vua nghe vậy tức thì triệu hai ông đến cùng phong làm tả hữu tướng  quân, cùng Sơn Thánh đi tuần phòng hai đạo Tây Bắc. Hai ông vâng lệnh thủy bộ hai đường đi tới. 

Một hôm tướng quân tiến về đạo Sơn Tây, phủ Đoan Hùng, huyện Đông Lan, tời đầu địa phận làng Minh Cầm và đóng quân ở đấy. Xem thế đất có hình núi sông uốn lượn, bao bọc bởi thế rồng cuộn hổ ngồi. Lập tức bảo binh sĩ cùng nhân dân lập đồn để ứng phó với quân  giặc. Khi ấy già trẻ gái trai làng Minh Cầm đều cùng hành lễ xin làm con thần. 

Hôm sau sứ giả mang chiếu triệu hai ông cùng Sơn Thánh về triều, đưa quân đi chặn đánh giặc ở các đạo phía Bắc. Hai ông sai mổ trâu giết lợn cúng tế trời đất, Sơn Thủy bách thần, khao thưởng sĩ tốt, cất quân tiến đánh đồn giặc Thục ở đạo Kinh Bắc, cùng giao chiến với giặc Thục một trận. Quân Thục thua to, chém được chín tướng cùng tuỳ tướng, thu được khí giới, lương thảo xe cộ vô số.

 Lúc đó vào mùa thu, thượng tuần tháng chín, thấy thư của Sơn Thánh tới nói về việc đã dẹp yên giặc Thục. Vua ban chiếu hồi Kinh, hai ông vâng mệnh trở về. Nhà vua mở  tiệc  lớn ăn mừng, phong tặng tướng sĩ theo thứ bậc, cấp cho hai ông thực ấp ở phủ Đoan Hùng. Hai ông bái tạ và trở về nhận thực ấp.

 Một lần nọ khi trở về làng Minh Cầm, nhân dân phụ lão gia thần tâu rằng: Từ khi hai ông lập đồn sở ở làng, dân đều sống bình yên, giầu có, muốn rằng từ nay nơi đây là đồn sở, sau này là nơi thờ phụng. Hai ông nói: “Ta nay mà được vinh hiển làm chủ ấp, các ngươi có lòng tôn kính, vậy cho phép các ngươi sau này được thờ phụng thần hiệu của ta”.

Hôm sau hai ông mở tiệc mời phụ lão, nhân dân gia thần tới dự. Trong bữa tiệc, hai ông ban cho hai hốt vàng để sau này mua đất trồng cấy và dùng vào việc tế lễ. Bỗng nhiên mặt đất tối sầm, không ai nghe và nhìn thấy gì nữa, mưa to gió lớn, có một áng mây màu vàng như tấm lụa từ trên trời bay xuống trước bản doanh, thấy hai ông nâng mình bay ra khỏi thành lầu và không thấy đâu nữa, tức là cùng hoá vậy.

Đó là ngày 12 tháng 11. Nhân dân, gia thần trong làng đều kinh ngạc, làm lễ dâng biểu lên triều đình. Nhà vua hiểu rõ sự việc, ra lệnh trở về làm lễ, sai cấp sắc phong là Thượng Đẳng Tôn Thần.

 Sắc phong hậu tự Thần hiệu: Nhất phong Cao sơn Nhất thống Đại Vương. Phong thêm là: Uy linh Phổ tế hựu Quốc hộ dân Uy dũng Hùng Kiệt đột Ngật Thượng Đẳng Tôn Thần. 
 
Nhất phong: Cao Sơn Quý Minh Minh Chính Đại Vương.  Gia phong  là Quảng tế Hoằng Đức Thượng Đẳng Tôn Thần. 
Phong tặng ba vị là Hộ Quốc Hựu Y Thánh Khang Dân Phù Vận Tuyên Hiến Địch Cát Thượng Đẳng Tôn Thần. 
Công đức phù trợ đất nước của các ông được mãi mãi ghi nhớ.  Nay  ban!
Cho phép làng Minh Cầm nghênh đón mỹ tự để nhân dân lập miếu tế lễ. 

Đến thời Đinh Tiên Hoàng, hàng năm vào ngày 1 tháng giêng, nhà vua xa giá về làm lễ thể hiện sự linh ứng của hai ông. 

Do trước đây Vua Đinh bị vây hãm ở chùa, hai vị thần đã hiển linh phù trợ và giải thoát được. Từ đấy trở đi (vua) vẫn thường tới đây để tế lễ. Lại kể từ đó về sau này, hai ông đều tỏ rõ linh ứng. Nhiều triều đại đế vương vẫn ban sắc phong,  gia phong các mỹ tự cho ba vị đại vương.

Đến thời Lê Thái Tổ, khởi nghĩa diệt Liễu Thăng, dẹp giặc Minh, lấy được thiên hạ. Thái Tổ cũng  gia phong mỹ tự cho ba vị Đại Vương là  Phổ Tế cương nghị Anh linh Đại Vương. 
 Sắc chỉ ban cho làng Minh Cầm.
 
Liệt kê các ngày sinh ngày hoá và tên huý của các thần, cấm dùng bốn chữ Cao, Sơn, Quý, Minh. Cho phép làng Minh Cầm được thờ phụng các thần:

-Thần sinh ngày4 tháng giêng, được liệt vào lễ chính. Lễ dùng: Trên bàn là đồ chay, dưới là thịt lợn đen, rượu ngon và ca hát, kèm các môn đánh vật, đấu cờ. Các trò ( vui) diễn ra sáu ngày thì dừng lại.

-Thần hoá là ngày 12 tháng 11,  cũng liệt vào lễ chính. Lễ dùng: Trên bàn là đồ chay, dưới là thịt trâu, thịt lợn, rượu ngon, bánh dày, bánh chưng, cấm ca hát.

Tìm thấy cuốn thần tích về hai vị tướng Cao Sơn, Quý Minh thời Hùng Vương ở huyện Đại Từ

Quá trình tiến hành điều tra văn hoá phi vật thể tại xã Khôi Kỳ, huyện Đại Từ, các nhà khoa học và cơ quan chức năng tìm thấy cuốn Thần tích ghi chép về sự tích 2 vị tướng Cao Sơn và Quý Minh là thuộc tướng đã có công giúp vua Hùng Vương dẹp giặc ở thời vua Hùng Duệ Vương thứ 17.

 

Cuốn Thần tích có kích thước 12 x 20cm, bìa đóng bằng giấy xi măng, trong có 19 tờ giấy dó cổ gấp, tương đương 38 trang chữ Hán Nôm. Không kể 2 trang đầu được ghi thêm, trong mỗi trang nguyên bản có 6 dòng chữ, mỗi dòng có 12 chữ. Chúng tôi đã phiên âm, tạm dịch nghĩa nội dung bản Thần tích cho biết: Thần Cao Sơn và Quý Minh là vị tướng có tài thao lược, văn võ song toàn do có công giúp vua Hùng Duệ Vương cùng với Tản Viên Sơn Thánh có công dẹp giặc Thục nên đã được Vua Hùng tặng thưởng công lớn.  Sau khi các vị này qua đời, nhà vua ra lệnh cho nhiều nơi trong nước trong đó có xã Khôi Kỳ (Đại Từ) ngài đóng quân và đi qua đều được lập đền thờ.

Qua bản Thần tích này cho thấy ngoài chép sự tích các vị thần sách còn chép các sắc phong của các triều đại phong tặng cho các vị tướng Cao Sơn và Quý Minh. Bản Thần tích được Hàn lâm viện Đại học sỹ Nguyễn Bính biên soạn vào ngày lành tháng Giêng năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) được chép lại vào ngày lành tháng 8 năm Vĩnh Hựu thứ 6 (1740) và cuốn này được sao lại vào ngày 11 tháng 8 năm Duy Tân thứ 3 (1910). Cuốn Thần tích có giá trị lịch sử và văn hoá, là tài liệu văn bản tìm hiểu về phong tục tín ngưỡng của nhân dân địa phương cần được nghiên cứu và bảo tồn.

Ths Nguyễn Thy Ngà tổng hợp

Trở về đầu trang
   Sơn thánh Tản Viên Cao Sơn Đại vương Quý Minh đại vương nần tích nơi thờ phụng
1   Tổng số:1 lượt

Các tin khác

  • Đình Thanh Sơn, thờ phụng Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát và Châu Lan Đại vương
  • Nghệ thuật kiến trúc đặc sắc của Đình đá Tiên Phong
  • Hà Nam: Đình Quan Phố đón nhận Bằng xếp hạng Di tích cấp quốc gia
  • Đình Quan Phố và những nét kiến trúc nghệ thuật độc đáo
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật
  • Di tích đền phủ Ninh Xá ở Nam Định nơi lưu giữ 28 đạo sắc phong
  • Đình Nghĩa Chỉ, Tiên Du, thờ phụng Phùng Hưng và hai vị thủy thần
  • Đình, nghè Mai Động, thờ phụng Đô úy Tam Trinh triều Nhị vua Hai Bà Trưng
  • Đình Tây Đằng – Bảo tàng nghệ thuật kiến trúc thế kỷ 16
  • Di tích phòng tuyến sông Như Nguyệt - Địa danh gắn với chiến thắng lịch sử chống quân Tống
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Long An phát triển du lịch qua di tích lịch sử - văn hóa

    168
  • Quảng Nam: Tây Giang hướng đến phát triển du lịch xanh

    121
  • Hải Dương: Phường rối nước Thanh Hải được công nhận là điểm du lịch

    120
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật

    117
  • Cung đường mới - động lực lớn cho phát triển du lịch hồ Ba Bể (Bắc Kạn)

    112

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2025 Trang thông tin du lịch