Từ xa xưa, các hội làng có vai trò rất lớn trong đời sống tinh thần người Việt. Tại huyện Yên Mô, Ninh Bình, nhiều làng quê vẫn giữ được nét văn hóa hội làng từ hàng trăm năm nay tạo nên nét đặc sắc của đất và người vùng cửa biển Thần Phù.
Du khách và dân làng hòa vào các lễ hội của Yên Mô. (Nguồn ảnh: internet)
Từ xa xưa, các hội làng có vai trò rất lớn trong đời sống tinh thần người Việt. Các hội làng thường gắn với tục thờ cúng vị thành hoàng làng. Đây là một hoạt động văn hóa tâm linh mang tính truyền thống, thể hiện chiều sâu, độ dày về văn hóa cộng đồng làng xã, nâng cao tinh thần đại đoàn kết, tạo ra sức mạnh nội sinh để người dân thêm yêu quê hương, đất nước, tạo dựng cuộc sống ấm no, tươi đẹp. Tại huyện Yên Mô, Ninh Bình, nhiều làng quê vẫn giữ được nét văn hóa hội làng từ hàng trăm năm nay tạo nên nét đặc sắc của đất và người vùng cửa biển Thần Phù.
Náo nức xem rước kiệu
Làng Nộn Khê thuộc xã Yên Từ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Phía Bắc giáp với làng Quảng Phúc, phía Đông giáp làng Quảng Từ, phía Nam giáp thôn Dân Chủ và sông Đào. Nộn Khê hình thành làng từ thời Lê - Hồng Đức, cách đây đã hơn 500 năm. Làng có 8 họ chính: Bùi, Đinh, Phạm, Cao, Mai, Lê, Trần, Nguyễn. Ngoài 8 dòng họ đầu tiên đến dựng làng từ thế kỷ XV, hiện nay còn có hơn 20 dòng họ khác cùng sinh sống, xây dựng, phát triển làng Nộn Khê. Các dòng họ đã có những hoạt động cụ thể, góp phần bảo lưu, giáo dục về Lễ hội Báo Bản, lịch sử văn hóa truyền thống của làng. Nộn Khê vốn nổi tiếng với nghề truyền thống là nghề làm ruộng và dệt vải thủ công, ngày nay thì ở đây nổi tiếng với nghề chế biến cói xuất khẩu. Ngoài ra, còn có nhiều người làm các nghề dịch vụ truyền thống khác như gói bánh giò trứng, mọc luộc…
Theo tục lệ cổ truyền, Lễ hội Báo Bản làng Nộn Khê sẽ diễn ra hàng năm vào ngày 13 - 14 tháng giêng âm lịch. Đây là lễ hội gắn liền với hệ thống tín ngưỡng dân gian của người Việt ở vùng Đồng bằng ven biển khi xưa: thờ thủy thần (Thủy tề đệ tam đại vương), thờ nhân thần (Phổ thiên Đông Hải đại vương Nguyễn Phục, Thái phi Long Hoa Thụy Quế Công chúa), thờ các vị tiền hiền có công lập làng (cụ Bùi Công Mẫn và thủy tổ của 7 dòng họ Đinh, Nguyễn, Lê, Phạm, Cao, Trần, Mai), thờ 5 bà mẹ Việt Nam anh hùng và 125 liệt sĩ.
Thường lễ hội trước đây chỉ có tế nam quan và đội tế nam trong phần nghi lễ Báo Bản. Từ đầu năm của thế kỷ XXI có thêm tế nữ quan và sự tham gia của các đội tế nữ quan của các địa phương khác để lễ hội thêm sắc màu, bình đẳng. Ngoài ra, đoàn rước kiệu được bổ sung thêm đội cờ hồng, cờ Tổ quốc, ảnh Bác Hồ, bài vị của 95 liệt sĩ hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, đội kèn đồng…
Những ngày diễn ra lễ hội, dọc con đường làng và từng ngõ xóm rợp cờ hoa rực rỡ. Làng rộn ràng nhịp trống, cùng tiếng loa vang, lộng lẫy nghiêm trang là hàng kiệu được bày trước nơi thờ tự. Toàn thể nam phụ lão ấu trong làng cùng hân hoan, tấp nập chiêm bái nghi lễ rước kiệu. Kiệu được khởi hành cùng đội hình rước xung quanh làng để người dân cúng tế cầu thần linh bảo hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, học hành đỗ đạt, mọi nhà bình an hưởng phúc, dân an, vật thịnh…
Đặc biệt ở Lễ hội Báo Bản Nộn Khê là dịp để người dân trong làng được nghỉ ngơi và tham gia vào các cuộc thi văn thơ.
Những người con xa quê cũng có thể gửi thơ về dự thi và cũng được ban tổ chức bố trí người ngâm hoặc chuyển thể thành các làn điệu dân ca để hát. Đêm thơ này thường được tổ chức vào đêm ngày 13 tháng giêng với tên gọi quen thuộc là “Dạ hội văn nghệ”. Hoạt động bình thơ vào đêm 13 tháng Giêng và thưởng thơ vào sáng 14 không chỉ là diện mạo mới mà nó là sự kéo dài, phát triển lên tầm cao mới của truyền thống hiếu học, yêu thơ ca của người dân làng Nộn Khê hàng trăm năm nay.
Một nét đặc sắc mà Lễ hội Báo Bản ở Nộn Khê còn giữ được đó là hai phiên chợ đêm vào tối ngày 12 và 13 tháng Giêng thu hút hàng nghìn người về dự với nhiều món ăn dân dã mang đậm hương vị quê hương như: bánh đúc, bánh gai, bánh quấn, bún riêu, bún ốc... Lễ hội Báo Bản được tiến hành vừa nghiêm cẩn, linh thiêng, vừa rộn ràng, ấm áp.
Các trò chơi dân gian thu hút du khách. (ảnh: Tư liệu)
Rước sách tế nam quan, nữ quan
Xã Yên Phong (Yên Mô) nổi tiếng với lễ hội làng Quảng Phúc, diễn ra trong 3 ngày, từ ngày 10 đến 13/3 âm lịch hàng năm tại cụm di tích chùa, phủ làng Quảng Phúc (di tích lịch sử cấp Quốc gia). Lễ hội nhằm tưởng nhớ, tôn vinh tam vị Thánh Mẫu, tam vị Ngọ Đại Vương - 3 vị tướng thời Hùng Vương thứ 18, có công dẹp cướp biển ở cửa biển Thần Phù, dẹp cướp rừng và 2 vị phối thần của làng là Lê Triều Đinh tướng công và Lê Triều Huấn đạo quan.
Lễ hội có 2 phần. Phần lễ đã duy trì và bảo tồn theo nghi thức truyền thống, đó là rước kiệu, rước sách, tế nam quan, nữ quan nhằm tưởng nhớ công ơn các vị thần đã có công với nước và các thành hoàng làng có công khai sinh ra làng và để cầu mưa thuận gió hòa, phúc thái dân an. Các hoạt động phần lễ đều được Ban Tổ chức Lễ hội bảo đảm ý nghĩa lịch sử, văn hóa, đồng thời phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Phần hội là văn nghệ truyền thống, những trò chơi dân gian đặc sắc mang tính thượng võ như đu quay, tổ tôm điếm, đập niêu, kéo co, bắt vịt, cờ tướng, hội kéo chữ, hội rồng, hội lân, kết hợp với các hoạt động văn hóa văn nghệ...
Lễ hội đền Năn (xã Yên Thắng) - di tích lịch sử cấp Quốc gia được duy trì từ lâu đời, tổ chức 2 năm/lần vào mùng 10 tháng Giêng. Lễ hội nhằm ghi nhớ công ơn lập làng của ông tổ họ Lưu Đắc làng Quảng Thượng và tưởng bậc tiền nhân đã có công với quê hương. Nét đặc trưng của lễ hội là tục tiến kê (thi gà lễ gồm 1 con gà lễ trang trí đẹp bày trên mâm xôi), qua đó thể hiện tình cảm của các gia đình với tổ tiên. Lễ hội đã trở thành nét văn hóa không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người dân 3 thôn Quảng Thượng, Cầu Cọ, Cầu Mễ. Sau các nghi lễ truyền thống là phần hội đặc sắc với trò đu quay, chọi gà, đánh cờ, kéo chữ.
Ông An Đôn Nghĩa - Phó Chủ tịch UBND huyện Yên Mô cho hay, theo thống kê, hàng năm huyện Yên Mô có 58 lễ hội được tổ chức. Là vùng đất được hình thành và có con người sinh sống từ lâu đời nên đời sống văn hóa tâm linh ở Yên Mô có nhiều nét đặc sắc. Các lễ hội thường được tổ chức vào mùa xuân nhằm ôn lại khí thế hào hùng, truyền thống của các bậc tiền nhân; là dịp để người dân tỏ lòng thành kính, lòng biết ơn và sự tri ân sâu sắc đối với công lao to lớn của các bậc tiền nhân. Cũng là dịp, phát huy truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, giữ gìn và bảo tồn thuần phong mỹ tục, nét đẹp của văn hóa tâm linh.
Phòng Văn hóa và Thông tin huyện đã tham mưu cho UBND huyện chỉ đạo các xã, thị trấn tăng cường quản lý, chỉ đạo hoạt động lễ hội bảo đảm vừa tôn vinh được giá trị truyền thống, vừa thu hút được con em quê hương và du khách đến với lễ hội, từng bước đưa lễ hội đi vào nền nếp, quy củ hơn. Ban quản lý các di tích, ban tổ chức lễ hội quan tâm hướng dẫn du khách thực hiện nếp sống văn minh, an toàn khi tham gia lễ hội; bố trí, sắp xếp hợp lý hòm công đức, thực hành tiết kiệm, hạn chế đốt vàng mã, tăng cường thanh tra, kiểm tra, kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi tiêu cực, lợi dụng lễ hội để hoạt động mê tín dị đoan, thu lợi bất chính... Nâng nhận thức và hành động của người dân về thực hiện nếp sống văn hóa, giữ gìn vệ sinh môi trường, tạo cảnh quan môi trường xanh - sạch - đẹp tại các di tích, lễ hội.
Ngoài ra, các địa phương có nhiều đề xuất mời những người am hiểu về lễ hội, lịch sử văn hóa truyền thống của làng, có năng khiếu kể chuyện, thuyết minh phối hợp với nhà trường trong các giờ học ngoại khóa ở các trường học nơi làng, xã có các lễ hội. Nhà trường phát động các cuộc thi viết văn, làm thơ, tìm hiểu về lịch sử văn hóa truyền thống của làng, xã. Học sinh nào được giải thưởng của nhà trường sẽ được làng, dòng họ trích một phần kinh phí tổ chức lễ hội trao thưởng, khuyến khích, động viên. Đây là cách thức để các em học sinh có ý thức, trách nhiệm tìm hiểu về lịch sử, văn hóa truyền thống của làng; hun đúc lòng tự tôn, tự hào về truyền thống lâu đời, phong tục tập quán tốt đẹp cũng như gìn giữ các lễ hội truyền thống của Yên Mô.
… Mỗi lần trống hội vang lên, người dân được hòa vào không khí lễ hội đầm ấm, để thấy lòng thanh thản, hân hoan đón chào cuộc sống tươi đẹp, lòng chợt thấy nao nao, rộn ràng.
Huyện Yên Mô (Ninh Bình) được hình thành từ rất sớm. Theo kết quả khảo cổ, vùng đất cổ Yên Mô đã có con người sinh sống cách ngày nay hàng vạn năm. Thời nhà Trần gọi là Mô Độ, thời thuộc Minh Yên Mô thuộc châu Trường Yên. Thời Vua Lê Thánh Tông (1460 - 1469) Yên Mô thuộc phủ Trường Yên. Đầu thế kỷ XIX, thời nhà Nguyễn vẫn gọi là Yên Mô, gồm 8 tổng với 59 xã, thôn, phường, trang, trại. Năm Minh Mạng thứ 19 (1838), cắt tổng Thần Phù thuộc huyện Nga Sơn, Thanh Hoá về huyện Yên Mô thuộc Phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.
Yên Mô là quê hương của nhiều danh nhân tiêu biểu như: Trần Triệu Cơ, Ninh Tốn, Vũ Phạm Khải, Phạm Thận Duật, Tạ Uyên, Vũ Xuân Hồng, Nguyễn Thị Thanh... “Đại Nam nhất thống chí” có nói đến “Trường Yên thất hào”, bảy người Ninh Bình nổi danh đời Lê. Đó là Hiển trung đại phu Hoàng Trọng Cung người huyện Yên Khánh, Tham nghị Nguyễn Tử Dự người Giá Hộ (Hoa Lư), Thừa chính Nguyễn Đoan Tước người Phúc Am (thành phố Ninh Bình), Thị độc Ninh Tốn, người Côi Trì (Yên Mỹ, Yên Mô), Hiến phó sứ Nguyễn Đình Chí, người Bồ Xuyên (Yên Thành, Yên Mô), Thiêm sự Trịnh Xuân người Yên Liêu (Khánh Thịnh, Yên Mô) và Tham chính Phạm Kiêm Huyền người Thiên Trì (Yên Mạc, Yên Mô)…
Bảo Châu (tổng hợp)
Nguồn: Báo Pháp Luật