Biến công nghiệp văn hóa trở thành động lực phát triển hoạt động du lịch

Mục tiêu cụ thể trong Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 xác định: Phấn đấu đến năm 2030 ngành du lịch văn hóa chiếm 15-20% trong tổng số 40 tỷ USD tổng thu từ khách du lịch.

Chương trình biểu diễn nghệ thuật thực cảnh: Ký ức Hội An. Ảnh: TITC

Hiện nay, mỗi địa phương, mỗi vùng, miền đất Việt đều sở hữu nguồn tài nguyên văn hóa tự nhiên và nhân văn đa dạng, giàu giá trị. Nhưng làm thế nào để đưa những giá trị văn hóa đó thành sản phẩm mang lại giá trị kinh tế, thu hút đông đảo du khách là việc không đơn giản.

Ðây chính là bài toán cần được giải đáp, nếu muốn đưa du lịch văn hóa trở thành ngành công nghiệp văn hóa và công nghiệp văn hóa trở thành nguồn lực phát triển bền vững du lịch Việt Nam.

Thực tiễn cho thấy, du lịch chính là phương thức, là con đường mà nhiều quốc gia đang đầu tư, khai thác yếu tố kinh tế của các giá trị văn hóa, để phát huy sức mạnh mềm của văn hóa quốc gia, dân tộc.

Đồng thời, tài nguyên văn hóa cũng chính là nguồn lực phát triển kinh tế. Bài viết này hy vọng sẽ cung cấp cho bạn đọc một góc nhìn về thúc đẩy công nghiệp văn hóa tạo động lực phát triển hoạt động du lịch Việt Nam thời gian tới.

Công nghiệp văn hóa

Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), công nghiệp văn hoá là kết hợp sự sáng tạo, quá trình sản xuất và phân phối hàng hóa, dịch vụ thuộc về văn hóa trong tự nhiên và thường được các quyền sở hữu trí tuệ bảo vệ.

Công nghiệp văn hoá sử dụng nguyên liệu đầu vào là năng lực sáng tạo, nguồn vốn văn hóa, nguồn vốn trí tuệ, để tạo đầu ra là các sản phẩm - dịch vụ văn hóa, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng, hưởng thụ văn hóa ngày mạnh mẽ và đa dạng của người dân.

Các ngành công nghiệp văn hóa là sự thể hiện rõ nhất xu thế kinh tế và văn hóa thấm sâu vào nhau, là kết hợp của các yếu tố chính: sáng tạo, cơ sở hạ tầng và công nghệ sản xuất hiện đại, từ đó có thể sản sinh ra các sản phẩm văn hóa đem lại lợi ích kinh tế, thu hút nguồn lực, lao động, việc làm, phát huy lợi thế cạnh tranh.

Mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế

Từ khi Đảng lãnh đạo tiến hành công cuộc đổi mới, tư duy về văn hóa, về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế đã có sự thay đổi. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển nói chung và phát triển kinh tế nói riêng đã được nhìn nhận một cách toàn diện và thấu đáo hơn. Văn hóa được xem là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế. Bản chất của văn hóa là sự sáng tạo hướng tới các giá trị nhân văn, vì ấm no, hạnh phúc của con người và sự thịnh vượng của quốc gia - đây cũng chính là mục tiêu của phát triển nói chung và phát triển kinh tế nói riêng.

Có thể khẳng định, văn hóa là động lực trực tiếp cho sự phát triển kinh tế. Sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa đã và đang mang lại kỳ vọng một hướng phát triển nhanh, bền vững của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Công nghiệp văn hóa là một tập hợp các ngành phát triển dựa trên sự khai thác tổng hợp các yếu tố: sáng tạo, khoa học - công nghệ, thị trường và vốn văn hóa.

Thay vì khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên hữu hạn như nhiều ngành nghề khác, ngành công nghiệp văn hóa khai thác nguồn tài nguyên vô hạn là sức sáng tạo của con người. Công nghiệp văn hóa chính là một biểu hiện tập trung của sự gắn kết chặt chẽ giữa văn hóa và kinh tế trong phát triển.

Những quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế là những vấn đề lý luận rất mới, có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn sâu rộng, để đảm bảo sự hài hòa trong phát triển văn hóa và tăng trưởng kinh tế, vì mục tiêu phát triển bền vững đất nước.

 Chủ trương, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa

Quan điểm về phát triển công nghiệp văn hoá được Đảng ta hình thành từ năm 1986 đến nay, trong văn kiện các kỳ Đại hội Đảng, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương cũng liên tục được đề cập và được khẳng định cụ thể tại Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, xác định: “Phát triển công nghiệp văn hoá nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng và giá trị đặc sắc của văn hoá Việt Nam; khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hoá, góp phần quảng bá văn hoá Việt Nam ra thế giới. Có cơ chế khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hoá. Tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp văn hoá, văn nghệ, thể thao, du lịch thu hút các nguồn lực xã hội phát triển. Đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường văn hoá và công nghiệp văn hoá”.

Qua nghiên cứu cho thấy ở các nước phát triển, công nghiệp văn hóa đã mang lại nguồn thu lớn cho tổng sản phẩm trong nước. Ở Hồng Kông, 85% thu nhập quốc dân có được từ nguồn thu dịch vụ giải trí, truyền hình và quảng cáo. Ở Nhật Bản có ngành công nghiệp văn hoá tầm cỡ quốc tế; điển hình là trong việc viết truyện, xuất bản truyện, làm quà lưu niệm từ các tác phẩm truyện này, làm anime, và làm các game từ các tác phẩm... trung bình doanh thu của họ đã lên đến 2 tỉ USD. Ở Hàn Quốc, một quốc gia công nghiệp văn hoá không kém cạnh so với Nhật Bản, các nhóm nhạc, những bộ phim, đều được các phương tiện truyền thông đưa đi khắp trên toàn cầu. Hiện nay, có nhiều quốc gia trên thế giới đang xem công nghiệp văn hoá là lợi thế so sánh để phát triển kinh tế tri thức trong quá trình cạnh tranh toàn cầu. Bên cạnh những giá trị về kinh tế mang lại, công nghiệp văn hóa đóng góp rất nhiều trong việc xúc tiến, quảng bá thúc đẩy hoạt động du lịch văn hóa phát triển tại các quốc gia này.

Ở Việt Nam, ngày 08/9/2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1755/QĐ-TTg “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn 2030” đã thúc đẩy phát triển 12 lĩnh vực: Quảng cáo; Kiến trúc; Phần mềm và các trò chơi giải trí; Thủ công mỹ nghệ; Thiết kế; Điện ảnh; Xuất bản; Thời trang; Nghệ thuật biểu diễn; Mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; Truyền hình và phát thanh và Du lịch văn hóa. Chiến lược đã xác định mục tiêu cụ thể phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020 như sau: “Phấn đấu doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 3% cho GDP và tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội, cụ thể các ngành như: Điện ảnh đạt 150 triệu USD; Nghệ thuật biểu diễn đạt 16 triệu USD; Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm đạt 80 triệu USD; Quảng cáo đạt 1.500 triệu USD; Du lịch văn hóa chiếm 10 - 15% trong số 18.000 triệu USD doanh thu từ khách du lịch”.

Theo kết quả phân tích từ số liệu do Trung tâm Tư vấn và Dịch vụ thống kê, Cục Thu thập dữ liệu và Ứng dụng công nghệ thông tin, Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, công nghiệp văn hóa đang trở thành xu hướng và được xác định là phần quan trọng, bền vững, đóng góp vào sự tăng trưởng của đất nước. Qua số liệu ước tính, giá trị tăng thêm (giá hiện hành) của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp vào nền kinh tế năm 2018 ước đạt 5,82%; năm 2019 ước đạt 6,02%; năm 2020 và 2021 do ảnh hưởng của đại dịch nên số liệu có sự sụt giảm chỉ còn khoảng 4,32% và 3,92%; đến năm 2022 các ngành đã bắt đầu phục hồi và giá trị đóng góp có sự tăng trưởng ước đạt 4,04%. Giá trị sản xuất của các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam giai đoạn 2018-2022 đóng góp ước bình quân đạt 1,059 triệu tỷ đồng (tương đương khoảng 44 tỷ USD).

Giai đoạn 2018-2022, bình quân 5 năm tốc độ tăng trưởng về số lượng các   cơ sở kinh tế hoạt động trong các ngành công nghiệp văn hóa ước đạt 7,2%/năm; năm 2022 thống kê có khoảng 70.321 cơ sở đang hoạt động có liên quan đến các  ngành công nghiệp văn hoá. Lực lượng lao động thuộc các ngành công nghiệp văn hóa tăng khá nhanh, bình quân 5 năm lao động tăng 7,4%/năm, năm 2022 thu hút khoảng 2,3 triệu lao động, chiếm tỷ trọng 4,42% trong tổng lực lượng lao động  của nền kinh tế. Xuất nhập khẩu sản phẩm, dịch vụ của các ngành công nghiệp văn hóa trong giai đoạn 2018-2022 tạo ra giá trị xuất siêu, năm 2018 xuất siêu ước đạt 37 tỷ USD, đến năm 2022 xuất siêu tiếp tục tăng, ước đạt 41,9 tỷ USD.

Công nghiệp văn hóa là nhóm ngành mới, giá trị gia tăng đóng góp cho nền  kinh tế thể hiện là nhóm ngành có lợi thế quốc gia của Việt Nam, góp phần tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và quảng bá hình ảnh Việt Nam với thế giới. Đây là nhóm ngành có giá trị hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu tăng khá nhanh trong thời gian gần đây. Nhìn chung, các ngành công nghiệp văn hoá có tỷ lệ giá trị gia  tăng cao hơn so với chi phí sản xuất, góp phần tiết kiệm tài nguyên, kết hợp và phát huy được các yếu tố tự nhiên, văn hóa, bản sắc dân tộc và đáp ứng mục tiêu  phát triển bền vững.

 Thực tế nhận thức về vai trò của công nghiệp văn hóa

Theo Báo cáo của Chính phủ về đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035 trong Phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội lần thứ 33 vào tháng 4/2024 cho thấy, thời gian qua, nhận thức của các cấp, các ngành, người dân về vai trò và tầm quan trọng của các ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta dù đã được nâng lên nhưng còn chưa đầy đủ, chưa nhận diện rõ vai trò và vị trí của các ngành công nghiệp văn hóa trong sự phát triển của đất nước. Một số định hướng, chủ trương về hỗ trợ sáng tạo, công nghiệp văn hóa còn chậm được thể chế hóa.

Báo cáo của Chính phủ cũng nêu những hạn chế trong phát triển các ngành công nghiệp văn hóa như: còn thiếu cơ chế phối hợp giữa các ngành, các lĩnh vực và các địa phương trong việc quản lý và định hướng phát triển công nghiệp văn hóa; còn độ chênh về chủ thể định hướng và đầu tư phát triển công nghiệp văn hóa, thiếu sự hỗ trợ, đầu tư, kết nối của nhà nước và các thành phần kinh tế khác để thúc đẩy sự phát triển toàn diện của các ngành công nghiệp văn hóa; thiếu hệ thống cơ chế, chính sách để khuyến khích sáng tạo và sự tham gia của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong các hoạt động sáng tạo… Việc thiếu nguồn lực đầu tư tài chính và nguồn tài trợ có thể ảnh hưởng đến khả năng phát triển và duy trì các dự án văn hoá, giải trí, sáng tạo nói riêng và công nghiệp văn hoá nói chung.

Thực tế cũng cho thấy, các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam chưa có khả năng cạnh tranh, chưa khai thác được lợi thế tiềm năng để phát triển kinh tế và quảng bá văn hoá Việt Nam ra thế giới.

Vì vậy, Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035 cần đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp về phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam. Với tinh thần quyết liệt, kiên trì, có trọng tâm, trọng điểm, có tính chất đột phá, các tài nguyên văn hóa tiềm năng dựa trên đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ sẽ được chuyển hóa thành các sản phẩm và dịch vụ thị trường văn hóa có khả năng cạnh tranh cao, phù hợp với các quy luật cơ bản của kinh tế thị trường, xu thế của thời đại.

 Mối quan hệ giữa văn hóa và du lịch

Văn hoá mang nội hàm rộng với rất nhiều cách tiếp cận khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người được lưu truyền từ đời này sang đời khác thông qua các chuỗi sự kiện trong đời sống hàng ngày.

Theo UNESCO: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại.