Đền Thụy Khuê tọa lạc tại số 251 đường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội thờ phụng đức Uy Linh Lang Đại vương thời Trần (một số tài liệu ghi là thời Lý).
Thời Lê, địa bàn này thuộc phường Thụy Chương, đến thời Nguyễn
kiêng tên huý vua Thiệu Trị mới đổi là Thụy Khuê, thuộc tổng Trung, huyện Vĩnh
Thuận cũ. Tại đây đã tìm thấy những viên gạch vồ và tấm bia đá được dựng năm
Vĩnh Tộ thứ ba (1621).
Đền Thụy Khuê thờ thần Uy Linh Lang thời Trần (thường bị
nhầm với thần Linh Lang thời Lý, được thờ chính ở đền Voi Phục Thủ Lệ
như Trấn Tây Thăng Long). Tương truyền đền từng có tượng voi quỳ, nhưng nay hai
bên cổng chỉ còn 2 con voi đá nhỏ ở tư thế đứng.
Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, vùng Thụy Khuê thời Lý
từng có cung điện Thụy Chương, khổng cuối triều Hồ thì bị tháo dỡ để lấy vật liệu
đưa về Tây Đô. Dân địa phương đã xây dựng đền thờ thánh Linh Lang trên nền cung
cũ, cổng đền hướng về tường ngoài thành Thăng Long ở mạn tây.
Năm 1608 và 1618, triều Lê hai lần tổ chức lễ cầu mưa đều được
linh ứng; nhân đó cho lập biển “Hạ mã”. Khi dân làng đào giếng đã tìm được đôi
voi đá nguyên khối, bèn xây bệ trước đền và đặt tượng lên thờ. Từ đó gọi là đền
Voi Phục Thụy Chương để phân biệt với đền Voi Phục Thủ Lệ. Năm 1860, Án Sát Sứ
Hà Nội là Tiến sỹ Nguyễn Hầu, tự Như Cát, đã thuyết phục kỳ mục sở tại đổi hướng
đền sang mạn bắc.
Ngày 22-1-1986 đền Thụy Khuê đã được Bộ Văn hóa và Thông tin
xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia.
Kiến trúc
Ngày 30-3-2011, UBND quận Tây Hồ đã khởi công Dự án tu bổ,
tôn tạo ngôi đền, vẫn giữ nguyên phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Cổng đền Thụy
Khuê quay hướng bắc ra phố Thụy Khuê, có đôi voi đá đứng ngoài. Cổng kiểu tam
quan thông phong với 3 bộ cửa gỗ, ngưỡng cao, hai bên hồi có đắp hai tượng hộ
pháp.
Qua cổng là sân đền, hai bên có tượng đôi ngựa hồng bạch lớn
đặt trong 2 căn nhà một gian lắp cửa kính.
Qua khoảng sân nhỏ là bậc tam cấp bằng đá xanh mịn dẫn ta
vào tiền tế. Tòa tiền tế gồm năm gian, vì kèo làm kiểu "chồng rường giá
chiêng", dưới là 4 hàng cột, hai vì hồi chạm hai mặt hổ phù, hổ mắt lồi vẻ
dữ tợn phản ánh ý thức cầu được mùa của cư dân nông nghiệp. Trên các bức cốn đầu
dư, được chạm khắc nhiều đề tài: rồng, mây, hoa la cách điệu. Gian chính giữa
treo bức đại tự "Vạn cổ anh linh", hai bên có treo câu đối ca ngợi
công tích của thần. Hai gian sát hồi được gắn nhiều bia đá, đó là nhữn bia ghi
việc trùng tu sửa chữa đền.
Hậu cung gồm ba gian, cũng giống như tòa tiền tế, đều xây
theo kiểu tường hồi bít đốc, theo kiểu duy nhất: "chồng rường giá
chiêng". Hai bên hồi cũng trang trí hổ phù, hoa văn hình học, tứ linh tứ
quý. Trên cao chính giữa hậu cung là long ngai, bài vị viết "Linh lang Đại
vương thượng đẳng thần". Bên cạnh đặt một bát hương bằng đá hình vuông. Mặt
chính diện chạm hổ phù, hai mặt bên chạm lưỡng long chầu nguyệt. Đây là hiện vật
quý thể hiện nghệ thuật tạo tác thời Lê.
Trong đền còn tấm bia cao 92cm, rộng 61cm, dày 10cm, được đặt
tên thân rùa, bốn mặt đều khắc chữ Hán. Đây là một di vật quý ghi lại nguồn gốc
của ngôi đền cũng như quá trình trùng tu, sửa chữa.
Qua tư liệu từ các tấm bia được biết thêm về
hướng Đền: trước đây dưới triều Lê, Đền làm theo hướng quay lưng ra Hồ, là để
ngăn con đường đi tắt ra hồ. Vào tháng 7 năm Canh Thân (1860) Án Sát Sứ Hà Nội
lúc đó là Tiến sỹ Nguyễn Hầu tự là Như Cát, nhân lúc rảnh rỗi đi chơi Hồ Tây đến
nơi này cảm hoài nói: "Đền như thế này thì làm sao có thể thu về cái đẹp của
non nước bao la, Đền như thế này làm sao bao quát được mây trời vạn dặm vào tầm
mắt được… ".
Thế là ngài hỏi ý kiến các bậc kỳ lão và mọi người bốc cư,
bày cách để làm việc phúc, bèn chọn ngày lành tháng tốt xây dựng lại Đền mặt
trước của Đền quay về hướng Đông Bắc thay vì hướng Tây Nam như trước đây. Nay Đền
nằm trong đất cố thổ của Hồ Tây, lấy Nền La Thành làm hậu chẩm, lấy Sông Tô làm
khâm đái, mặt nhìn ra nước Hồ Tây trong xanh, từng lớp sóng bạc dâng trào.
Sau khi làm được như vậy ông nói:"Hồ Sông thực khá lớn
vậy. Thần dân phải làm chủ hết thẩy. Nay thuận theo lòng người, chọn được
phương, định được vị để xin thân ban phúc. Chúng tôi được ủy thác trông coi
muôn dân; đầu tiên là phải làm cho chính sự thanh liêm mà dân hòa. Điều đó phải
dựa vào lòng người xu hướng vào đâu, bỏ cái gì mà làm cái gì. Bởi vậy mới nói
"Trước tiên là làm tốt đẹp cho dân, sau mới chí kính với Thần vậy".
Ngày Trùng dương 9
tháng 9 năm Canh Thân, Tự Đức thứ 13 (1860) dựng bia.
Phó Tổng Nguyễn Viết Hướng viết.
Gian chính giữa nhà tiền tế treo bức đại tự “Vạn cổ anh
linh”. Bên tả đền mới xây nhà tả mạc 5 gian cửa bức bàn, cách một cái sân. Đối
xứng bên hữu cũng xây nhà hữu mạc 5 gian, qua một sân khác giáp với đền Thụy Ứng
thờ Mẫu.
Các mảng chạm khắc cũ trong đền cũng mang phong cách nghệ
thuật trang trí của thời Hậu Lê. Ngoài hiên chỗ bậc tam cấp còn có các rồng đá
được chế tác với những nét hoa văn cách điệu.
Trong đền Thụy Khuê hiện còn lưu giữ được một bộ nghi trượng
thờ trong hậu cung, nhìn còn mới nguyên nhưng có niên đại từ thời Hậu Lê (do hội
Di sản văn hóa dân gian Hà Nội thẩm định).
Qua nhiều biến động của lịch sử, ngôi đền bảo lưu được di vật có giá trị cao. Ngoài sáu bia đá, di
tích còn bảo lưu được long ngai, bài vị, cửa võng, bát bửu, kiệu, hoành phi,
câu đối được sơn son thiếp vàng lộng lẫy với nội dung ca ngợi công tích của thần
như đôi câu đối:
Tây Hồ chi sơ Tô Lịch chi dương tự thị giang sơn chân diện mục
Lê thị dĩ tiền Lý triều dĩ hậu bất tùy văn vật cải tinh linh.
Tạm dịch:
Bến nước Hồ Tây, dòng sông Tô Lịch, bộ mặt nước Nam từ đó rạng.
Từ trước thời Lê, nối sau thời Lý, tinh linh văn vật chẳng đổi
dời.
Hoặc đôi câu đối:
Đông cung nhất dạ long đằng do truyền thắng tích
Tây trấn thiên thu tượng phục vĩnh ngật thần từ
Tạm dịch:
Hoàng tử một đêm cưỡi rồng bay, còn đây truyền thắng tích
Trấn Tây nghìn năm có Voi Phục, muôn thủa vững đền thờ.
Di sản
Trong khuôn viên đền có 9 cổ thụ, cây to nhất chu vi 5,2m
và cao 29m, cây nhỏ nhất chu vi 2,9m và cao 17m.
Hội đền được tổ chức để tưởng
niệm Linh Lang đại vương và 6 vị bộ tướng, cứ 5 năm mới làm đại lễ một lần,
hàng năm chỉ mở hội lệ. Thời gian diễn ra từ mồng 10 đến 12 tháng Hai âm lịch,
chính hội là ngày mồng 10. Trong dịp đó có lễ rước kết chạ với dân Thủ Lệ rất độc
đáo.
Hàng năm đến ngày 10, dân Thụy Chương sang Thủ Lệ làm lễ. ở
Thủ Lệ, các bô lão phải đảm đương việc “dọn trưởng”. Đường rước từ Thụy Chương
sang Thủ Lệ khá xa, phải nghỉ ở miếu Trắng, đã bị phá để mở đường quốc lộ đi
Sơn Tây). Ngày 12, đám rước đi ngược chiều từ đền Thủ Lệ sang đây, cũng trải
qua các bước như rước từ ban đầu. Tới Thụy Chương, đám rước tập kết ở đình Trên
(nay không còn nữa), chỉnh trang rồi mới vào đền làm lễ.
Nguồn: https://360.hncity.org/