1. Sự cần thiết phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao
	Sự phát triển của thế giới đang bước sang trang mới với những thành tựu
 có tính đột phá, trong đó yếu tố đóng vai trò trung tâm quyết định sự 
biến đổi về chất của nền kinh tế chính là nguồn nhân lực chất lượng cao.
 Sự thống trị của các nhân tố truyền thống như số lượng đất đai, lao 
động, hay nguồn vốn giờ đây đã được thay đổi. Chính nguồn nhân lực chất 
lượng cao mới là yếu tố cơ bản nhất của mọi quá trình, bởi lẽ những yếu 
tố khác vẫn có thể có được nếu có tri thức, song tri thức không tự nhiên
 xuất hiện mà phải thông qua một quá trình giáo dục, đào tạo và hoạt 
động thực tế. Ngày nay, sự cạnh tranh giữa các quốc gia, các doanh 
nghiệp chủ yếu là cạnh tranh về hàm lượng chất xám, nghĩa là hàm lượng 
tri thức kết tinh trong sản phẩm hàng hoá dịch vụ nhờ vào nguồn nhân lực
 có chất lượng. Vì vậy, trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, để có được
 tốc độ phát triển cao và bền vững, các quốc gia trên thế giới đều chú 
trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, một vấn đề cấp 
bách có tầm chiến lược và sống còn trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế 
thế giới. 
	Sự phát triển của ngành Du lịch đã và đang góp phần thúc đẩy chuyển 
dịch cơ cấu kinh tế; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá, tài 
nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy 
mạnh quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người 
Việt Nam. Tuy nhiên, ngành Du lịch còn một số hạn chế, yếu kém. Du lịch 
phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và kỳ vọng của xã 
hội. Sản phẩm du lịch chưa thực sự hấp dẫn và có sự khác biệt, khả năng 
cạnh tranh chưa cao. Chất lượng dịch vụ du lịch chưa đáp ứng yêu cầu. 
Hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch chưa cao. Môi trường du
 lịch, an toàn thực phẩm và an toàn giao thông còn nhiều bất cập. Công 
tác xúc tiến quảng bá du lịch còn nhiều hạn chế về nguồn lực, sự phối 
hợp và tính chuyên nghiệp, hiệu quả chưa cao. Nguồn nhân lực du lịch vừa
 thiếu vừa yếu. Doanh nghiệp du lịch chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và 
vừa; vốn, nhân lực và kinh nghiệm quản lý còn hạn chế. Vai trò của cộng 
đồng trong phát triển du lịch chưa được phát huy.
	Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém nêu trên là do các 
cấp, các ngành chưa thực sự coi du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có 
tính liên ngành, liên vùng, xã hội hoá và hội nhập quốc tế cao, mang nội
 dung văn hoá sâu sắc; thiếu chính sách quốc gia phù hợp để du lịch phát
 triển theo đúng tính chất của một ngành kinh tế vận hành theo quy luật
 thị trường. Thể chế, chính sách phát triển du lịch chưa đáp ứng yêu cầu
 phát triển, vẫn còn nặng tư tưởng bao cấp. Sự phối hợp liên ngành, liên
 vùng hiệu quả còn thấp; đầu tư còn dàn trải, chưa huy động được nhiều 
nguồn lực của xã hội cho phát triển du lịch. Công tác phát triển nguồn 
nhân lực du lịch chưa được quan tâm đúng mức.
	Ngày 09/8/2016, tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, Thủ tướng Chính 
phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì Hội nghị toàn quốc về phát triển du 
lịch. Tại Hội nghị này, Thủ tướng đã quan tâm đến vấn đề phát triển 
nguồn nhân lực du lịch và giao nhiệm vụ: 1) Bộ Lao động - Thương binh và
 Xã hội khẩn trương ban hành khung trình độ nghề quốc gia trong lĩnh vực
 du lịch; công nhận bộ tiêu chuẩn nghề quốc gia về du lịch và thực hiện 
Thoả thuận thừa nhận lẫn nhau về nghề du lịch trong khu vực Đông Nam Á 
(ASEAN); 2) Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch chủ trì phối hợp với các bộ,
 ngành, địa phương đánh giá tổng thể và dự báo nhu cầu nhân lực các lĩnh
 vực trong ngành Du lịch, khả năng đáp ứng của các cơ sở đào tạo; có 
biện pháp bổ sung kịp thời số lượng, đảm bảo chất lượng hướng dẫn viên, 
thuyết minh viên phục vụ khách du lịch, nhất là các địa bàn trọng điểm 
thu hút nhiều khách quốc tế và hướng dẫn viên các ngoại ngữ hiếm; tăng 
cường giáo dục lý luận chính trị, nâng cao phẩm chất đạo đức nghề 
nghiệp, bồi dưỡng kiến thức về lịch sử, văn hoá, ngoại ngữ cho hướng dẫn
 viên du lịch.
	Ngày 16/01/2017, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết
 số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh
 tế mũi nhọn. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử ngành Du lịch có một 
Nghị quyết của Bộ Chính trị. Nghị quyết chỉ ra, trong 15 năm qua, ngành 
Du lịch đã có bước phát triển rõ rệt và đạt được những kết quả quan 
trọng, rất đáng khích lệ. Để thực hiện mục tiêu đưa du lịch Việt Nam trở
 thành ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển bền vững và đóng góp xứng đáng
 vào sự phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi cần phải có những chính sách
 đột phá, các giải pháp tổng thể xử lý ngay những khó khăn, vướng mắc, 
tạo điều kiện cho phát triển du lịch, trong đó không thể không nhắc đến 
vấn đề phát triển nguồn nhân lực du lịch. Vấn đề phát triển nguồn nhân 
lực, đặc biệt nhân lực có chất lượng cao đang là thách thức đối với du 
lịch Việt Nam trước yêu cầu của tình hình mới. Đây cũng là vấn đề đặt ra
 trong việc xây dựng thương hiệu sản phẩm du lịch Việt Nam một cách bền 
vững. Trong Diễn đàn ATF, các chuyên gia du lịch cho rằng: so với các 
nước trong khu vực, thì chất lượng dịch vụ du lịch Việt Nam vẫn còn hạn 
chế. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng đó, theo ý 
kiến chung của nhiều chuyên gia là do nhân lực du lịch hiện nay vừa 
thiếu về số lượng lại vừa yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, do đó dẫn đến 
chất lượng phục vụ du lịch còn thấp. Để tạo ra sản phẩm du lịch có sức 
cạnh tranh cao thì chất lượng của nguồn nhân lực du lịch đóng vai trò 
quyết định. Chỉ khi phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao 
được quan tâm đúng mức và hợp lý mới duy trì được thương hiệu và chất 
lượng phục vụ trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
	2. Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao trong giai đoạn hiện nay
	Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành
 ngành kinh tế mũi nhọn đã xác định mục tiêu phát triển nguồn nhân lực 
như sau:
	1) Nhà nước có chính sách thu hút đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực du 
lịch; tăng cường năng lực cho các cơ sở đào tạo du lịch cả về cơ sở vật 
chất kỹ thuật, nội dung, chương trình và đội ngũ giáo viên. Đẩy mạnh xã 
hội hoá và hợp tác quốc tế, thu hút nguồn lực phát triển nguồn nhân lực 
du lịch.
	2) Đa dạng hoá các hình thức đào tạo du lịch. Đẩy mạnh ứng dụng khoa 
học-công nghệ tiên tiến trong đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân 
lực du lịch.
	3) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cả về quản lý nhà nước, quản trị 
doanh nghiệp và lao động nghề du lịch. Chú trọng nâng cao kỹ năng nghề, 
ngoại ngữ và đạo đức nghề nghiệp cho lực lượng lao động ngành Du lịch.
	4) Hoàn thiện bộ tiêu chuẩn nghề quốc gia về du lịch tương thích với 
các tiêu chuẩn trong ASEAN; thành lập Hội đồng nghề du lịch quốc gia và 
Hội đồng cấp chứng chỉ nghề du lịch.
	3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế 
	3.1. Tiêu chuẩn hoá nhân lực du lịch Việt Nam
	Từ năm 2017, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch xác định là năm du lịch 
phải tăng tốc để bước vào giai đoạn hội nhập khi mà Cộng đồng Kinh tế 
ASEAN chính thức hình thành vào cuối năm 2015 và thừa nhận lẫn nhau 
trong hệ thống tiêu chuẩn nghề của du lịch. Thỏa thuận này được các nước
 trong cộng đồng ASEAN rất quan tâm và nhiều nước đã đi tiên phong. 
Trong đó, nhân lực là yếu tố cốt lõi cho sự phát triển của mọi ngành 
nghề, đặc biệt là ngành du lịch. Các nước ASEAN nói chung hay Việt Nam, 
việc đào tạo nguồn nhân lực du lịch theo khung trình độ đã được thừa 
nhận là điều kiện tiên quyết để xây dựng ngành du lịch hội nhập quốc tế.
 Khi Thỏa thuận về nghề du lịch ASEAN chính thức có hiệu lực, sẽ có 
nhiều lao động trong khối ASEAN đến Việt Nam làm việc. Nếu lao động 
trong nước không nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng thực hành thì họ 
sẽ thua ngay trên chính sân nhà, hậu quả là sẽ nhiều người mất việc làm.
 Mặt khác, các doanh nghiệp du lịch ASEAN sẽ nhiều cơ hội thu hút lao 
động có tay nghề của Việt Nam. Điều này cũng có nghĩa là nếu doanh 
nghiệp du lịch trong nước không đổi mới, không phát triển để giữ chân 
lao động có tay nghề, thì sẽ mất đi nguồn chất xám lao động có kỹ năng 
nghề trong nước; chất lượng dịch vụ và khả năng cạnh tranh của các doanh
 nghiệp cũng sẽ bị suy giảm.
	Nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực có chất lượng cho ngành Du lịch tại
 Việt Nam, Chương trình Phát triển Năng lực Du lịch có trách nhiệm với 
Môi trường và Xã hội, do Liên minh châu Âu tài trợ (Dự án EU) đã sửa đổi
 bộ Tiêu chuẩn Kỹ năng nghề Du lịch Việt Nam (VTOS). Bộ tiêu chuẩn VTOS 
mới được phát triển mở rộng bao gồm cả các lĩnh vực được xác định là 
quan trọng đối với Việt Nam, ví dụ như thuyết minh du lịch, phục vụ trên
 tàu thủy du lịch và vận hành cơ sở lưu trú nhỏ, cũng như mở rộng thành 5
 bậc nghề từ nhân viên tập sự cho tới quản lý cấp cao. Toàn bộ các tiêu 
chuẩn này giúp người lao động, người sử dụng lao động, giáo viên và học 
sinh các trường du lịch nghiên cứu, áp dụng và thực hiện theo tiêu chuẩn
 VTOS nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch cũng như hiệu quả đào tạo
 nghề du lịch một cách thống nhất. Tiêu chuẩn nghề du lịch Việt Nam sửa 
đổi ngoài việc kế thừa các nội dung từ phiên bản trước đã được phát 
triển phù hợp với các quy định của Việt Nam cũng như được chuẩn hóa, 
tương thích với các tiêu chuẩn nghề quốc tế, Tiêu chuẩn ASEAN. Tiêu 
chuẩn nghề du lịch Việt Nam bản mới sẽ góp phần nâng cao chất lượng của 
ngành du lịch thông qua việc triển khai thực hiện, định hướng công tác 
đào tạo và hội nhập khu vực.
	3.2. Áp dụng tiêu chuẩn VTOS 
	Thoả thuận thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN về nghề du lịch (MRA-TP) được
 xây dựng nhằm cho phép chuyển dịch việc làm của người lao động du lịch 
lành nghề giữa các quốc gia thành viên và để công nhận các kỹ năng và 
văn bằng của người lao động du lịch từ các quốc gia thành viên khác 
trong ASEAN. Nếu lao động trong nước không nâng cao trình độ chuyên môn,
 kỹ năng thực hành thì họ sẽ thua ngay trên chính sân nhà, hậu quả là sẽ
 nhiều người mất việc làm. Mặt khác, các doanh nghiệp du lịch ASEAN sẽ 
nhiều cơ hội thu hút lao động có tay nghề của Việt Nam. Điều này cũng có
 nghĩa là nếu doanh nghiệp du lịch trong nước không đổi mới, không phát 
triển để giữ chân lao động có tay nghề, thì sẽ mất đi nguồn chất xám lao
 động có kỹ năng nghề trong nước; chất lượng dịch vụ và khả năng cạnh 
tranh của các doanh nghiệp cũng sẽ bị suy giảm. Trước thực tế này, các 
cơ sở đào tạo/dạy nghề sẽ phải rà soát chương trình đào tạo và văn bằng 
để đảm bảo rằng chúng phù hợp với hoặc liên kết với chương trình du lịch
 chung ASEAN nhằm cấp ra những văn bằng thích ứng/tương đương cho sinh 
viên hoặc người thực tập. Bên cạnh đó, cần xem xét xem các văn bằng hoặc
 các chương trình đào tạo hiện tại phải điều chỉnh hoặc thay đổi như thế
 nào nhằm đáp ứng các yêu cầu của ASEAN về thừa nhận văn bằng du lịch 
lẫn nhau.
	Xuất phát từ yêu cầu thực tế nêu trên, tham luận này đưa ra một số 
khuyến nghị đối với các cơ sở đào tạo/dạy nghề du lịch triển khai áp 
dụng Bộ tiêu chuẩn VTOS trong giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng nguồn 
nhân lực du lịch Việt Nam đáp ứng yêu cầu xã hội và hội nhập quốc tế như
 sau: 1) Thiết kế chương trình đào tạo/dạy nghề tiếp cận theo chuẩn đầu 
ra - năng lực cốt lõi của mỗi vị trí việc làm gắn với thực tế thị trường
 lao động. Đồng thời, hướng đến tính "mở", "linh hoạt",
 phù hợp cho việc áp dụng vào từng đối tượng, địa chỉ cụ thể; 2) Biên 
soạn chương trình môn học, bài giảng, giáo trình các học phần/môn 
học/mô-đun chuyên môn theo hướng tích hợp giữa lý thuyết và thực hành. 
Trong đó, thời lượng dành cho phần thực hành chiếm tỷ lệ từ 70-75% tổng 
thời gian học tập; 3) Thay đổi phương pháp giảng dạy của giảng viên/giáo
 viên, học tập của học sinh/sinh viên theo hướng tích cực, chủ động. Nội
 dung bài giảng của giảng viên/giáo viên phải được thiết kế mang tính 
trực quan, sinh động và cụ thể với các mẫu, phiếu, biểu, hình ảnh, phim…
 gắn với thực tế nghề nghiệp, gắn với doanh nghiệp; 4) Thay đổi phương 
pháp kiểm tra, đánh giá trên cơ sở đánh giá "năng lực", bao gồm
 cả 3 yêu cầu: kỹ năng, kiến thức, thái độ. Cuối kỳ, thay vì thi viết, 
học sinh/sinh viên được thi thực hành và vấn đáp để kiểm tra các đơn vị "năng lực" đã được học. Tập trung chủ yếu vào việc đánh giá "năng lực"
 chuyên môn nghiệp vụ và giao tiếp ngoại ngữ. Đây chính là cách đánh giá
 rất sát thực với lực học của học sinh/sinh viên; và 5) Gắn kết giữa cơ 
sở đào tạo/dạy nghề với doanh nghiệp du lịch trong quá trình đào tạo, 
thực hành, thực tập của học sinh/sinh viên để tạo điều kiện thu hẹp 
khoảng cách giữa đào tạo và sử dụng lao động sau tốt nghiệp. 
	Tuy nhiên, việc áp dụng Bộ tiêu chuẩn VTOS trong giảng dạy còn gặp nhiều khó khăn do số đơn vị "năng lực"
 nhiều, thời lượng giảng dạy cho học phần/môn học/mô-đun chuyên môn lại 
hạn chế (đặc biết đối với các cơ sở giáo dục đại học). Việc điều chỉnh 
chương trình để tăng thời lượng các học phần/môn học/mô-đun chuyên môn 
cũng gặp khó khăn do những quy định "cứng nhắc" bởi sự ràng buộc của chương trình khung, của yếu tố "tâm lý"
 giáo viên/giảng viên các bộ môn khác nhau (đặc biết đối với các cơ sở 
đào tạo/dạy nghề công lập). Bên cạnh đó, cần đầu tư cho trang thiết bị, 
dụng cụ thực hành, phương tiện nghe - nhìn, hệ thống học liệu, phòng học
 đa năng còn rất hạn chế để có thể áp dụng phương pháp giảng dạy tích 
cực đối với nhiều cơ sở đào tạo/dạy nghề.
	3.3. Áp dụng cơ chế đặc thù đào tạo nhân lực du lịch 
	Thực hiện Nghị quyết số 103/NQ-CP ngày 06/10/2017 của Chính phủ ban 
hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 
16/01/2017 của Bộ Chính trị khoá XII về phát triển du lịch trở thành 
ngành kinh tế mũi nhọn; thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Vũ 
Đức Đam tại Thông báo kết luận số 469/TB-VPCP ngày 06/10/2017 của Văn 
phòng Chính phủ về tình hình đào tạo nhân lực du lịch, theo đó, Bộ Giáo 
dục và Đào tạo ban hành Công văn số 4929/BGDĐT-GDĐH ngày 20/10/2017 
hướng dẫn cơ chế đặc thù đào tạo nhân lực du lịch trình độ đại học giai 
đoạn 2017-2020 theo hướng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thị trường lao 
động và hội nhập quốc tế. Trong đó nhấn mạnh sự phối hợp chặt chẽ giữa 
các cơ sở giáo dục đại học với doanh nghiệp trong đào tạo là điều kiện 
bắt buộc để được thực hiện cơ chế đặc thù này.
	Về chương trình, nội dung, hình thức đào tạo: 1) Phải điều chỉnh theo 
hướng mở, dễ dàng chuyển đổi, liên thông; bao gồm các học phần cốt lõi 
và các học phần tự chọn. 2) Các học phần cốt lõi nhằm cung cấp kiến 
thức, kỹ năng nền tảng của ngành đào tạo. 3) Các học phần tự chọn theo 
hướng chuyên sâu về các lĩnh vực du lịch theo vùng miền, khu vực địa lý,
 loại hình du lịch... 4) Rút ngắn thời gian đào tạo phù hợp với Khung cơ
 cấu hệ thống giáo dục quốc dân. Tăng thời gian đào tạo thực hành, thực 
tập tại doanh nghiệp. 5) Cơ sở đào tạo tự chủ lựa chọn doanh nghiệp đối 
tác; chịu trách nhiệm trong việc kiểm tra điều kiện đảm bảo chất lượng 
và năng lực tham gia đào tạo của doanh nghiệp đối tác trong quá trình 
phối hợp đào tạo và tổ chức cho sinh viên thực hành, thực tập.
	Về cơ chế, chính sách ưu tiên đào tạo nhân lực du lịch: 1) Khuyến khích
 thực hiện hình thức đào tạo văn bằng thứ hai ngành du lịch; khuyến 
khích các cơ sở đào tạo linh hoạt mở ngành đào tạo nhân lực du lịch theo
 nhu cầu của thị trường lao động và hội nhập quốc tế. 2) Các cơ sở đào 
tạo liên kết đào tạo với doanh nghiệp được tự chủ xác định chỉ tiêu 
tuyển sinh theo hướng mở rộng quy mô đối với các ngành đào tạo về du 
lịch; mở rộng chỉ tiêu đào tạo văn bằng 2 trình độ đại học của các ngành
 này. 3) Trên cơ sở tỉ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp, phân
 tích mức độ đáp ứng yêu cầu công việc của sinh viên tốt nghiệp nhóm 
ngành du lịch, các cơ sở đào tạo xác định chỉ tiêu tuyển sinh, điều 
chỉnh chương trình đào tạo phù hợp với thị trường lao động ngành du 
lịch. 4) Khuyến khích sinh viên đã tốt nghiệp các ngành khác được chuyển
 sang học văn bằng thứ hai các ngành du lịch tại các cơ sở đào tạo du 
lịch. 5) Chỉ tiêu và điều kiện tiếp nhận do thủ trưởng các cơ sở đào tạo
 đại học quy định theo hướng phù hợp với thị trường lao động và sự tự 
nguyện của người học. 6) Khuyến khích chuyên gia, cán bộ kỹ thuật, cán 
bộ quản lý…(gọi chung là chuyên gia) có kinh nghiệm hoạt động nghề 
nghiệp của doanh nghiệp tham gia đào tạo nhân lực du lịch, đặc biệt là 
giảng dạy, hướng dẫn các nội dung liên quan đến các kỹ năng đáp ứng yêu 
cầu của doanh nghiệp. Các chuyên gia này là người tốt nghiệp thạc sỹ trở
 lên hoặc tốt nghiệp đại học có từ 3 năm kinh nghiệm trở lên đúng ngành 
tham gia đào tạo. Trên cơ sở thống nhất với doanh nghiệp đối tác về tỷ 
lệ thời gian tham gia đào tạo của các chuyên gia, cơ sở đào tạo được 
tính các chuyên gia là giảng viên cơ hữu phù hợp với tỷ lệ thời gian 
tham gia đào tạo để xác định chỉ tiêu tuyển sinh các Ngành Du lịch. 7) 
Có chính sách thu hút các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài, chuyên gia
 quốc tế về du lịch tham gia công tác đào tạo ở các cơ sở đào tạo đại 
học. Trên cơ sở hợp đồng lao động giữa hai bên, các chuyên gia này được 
tính là giảng viên cơ hữu khi xác định chỉ tiêu tuyển sinh.
	Về hợp tác giữa cơ sở đào tạo đại học với doanh nghiệp, hiệp hội nghề 
nghiệp. Các cơ sở có đào tạo ngành du lịch phải gắn kết với hiệp hội 
nghề nghiệp, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch để dự báo nhu
 cầu lao động, xây dựng chuẩn đầu ra và đào tạo sinh viên có kỹ năng đáp
 ứng yêu cầu ngành nghề: 1) Thoả thuận doanh nghiệp là nơi thực hành, 
thực tập của cơ sở đào tạo; sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị, phần
 mềm… của doanh nghiệp để đào tạo thực hành. Thời gian đào tạo tại các 
doanh nghiệp ít nhất bằng tổng thời gian thực hành, thực tập của chương 
trình đào tạo và không ít hơn 50% tổng thời gian thực hiện chương trình 
đào tạo. 2) Doanh nghiệp cử chuyên gia tham gia giảng dạy, hướng dẫn 
thực hành, thực tập, đánh giá kết quả học tập của sinh viên. 3) Phối hợp
 dự báo nhu cầu nhân lực của các ngành du lịch về số lượng, yêu cầu chất
 lượng; phối hợp đầu tư cơ sở vật chất theo hướng đẩy mạnh xã hội hóa, 
tăng cường hợp tác công tư, chú trọng xây dựng các cơ sở thực hành, thực
 tập chất lượng cao, theo chuẩn mực khu vực và quốc tế phục vụ đào tạo 
nhân lực du lịch.
	Về hoạt động hỗ trợ đào tạo nhân lực du lịch: 1) Tăng cường tổ chức các
 khóa đào tạo ngắn hạn nhằm bổ sung, cập nhật kiến thức, kỹ năng, tăng 
cơ hội tìm việc làm cho sinh viên ngành du lịch đã tốt nghiệp. 2) Thống 
kê tỉ lệ có việc làm của sinh viên sau 12 tháng tốt nghiệp các ngành du 
lịch và công khai trên trang thông tin điện tử của các cơ sở đào tạo. 3)
 Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực du lịch; khuyến 
khích các cơ sở đào tạo liên kết với các trường đại học của các nước 
phát triển để đào tạo các ngành du lịch.
	4.4. Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động đào tạo 
	Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và
 hỗ trợ các hoạt động dạy-học, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao 
chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 
2025” vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Theo đó, đến năm 
2020, phấn đấu 100% các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo,
 các cơ sở giáo dục và đào tạo thực hiện quản lý hành chính xử lý hồ sơ 
công việc trên môi trường mạng; 70% cuộc họp giữa các cơ quan quản lý 
nhà nước và cơ sở giáo dục và đào tạo được áp dụng hình thức trực tuyến.
 70% lớp bồi dưỡng chuyên môn cho giảng viên, giáo viên và cán bộ quản 
lý giáo dục được thực hiện qua mạng theo phương thức học tập kết hợp 
(blended learning); 50% hồ sơ thủ tục hành chính được xử lý trực tuyến 
tối thiểu mức độ 3, trong đó 30% được xử lý trực tuyến ở mức độ 4.
	Vấn đề đặt ra cho mỗi cơ sở đào tạo nhân lực du lịch là triển khai hệ 
thống thông tin quản lý, cơ sở dữ liệu. Bên cạnh đó, triển khai hệ thống
 quản lý hành chính điện tử và liên thông toàn ngành; hệ thống họp, hội 
thảo, tập huấn chuyên môn qua mạng; bổ sung, cập nhật các dịch vụ công 
trực tuyến tối thiểu mức độ 3, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin 
tuyển sinh đầu khóa. Đồng thời, quản lý sinh viên, quản lý giảng viên, 
quản lý giáo án, bài giảng số, quản lý thi, xếp thời khóa biểu, sổ quản 
lý điện tử; tích hợp với trang tin điện tử của nhà trường trên môi 
trường mạng ở tất cả các khóa học.
	Đối với giảng viên phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin đổi mới 
nội dung, phương pháp dạy-học, kiểm tra đánh giá và nghiên cứu khoa học.
 Cụ thể, xây dựng và thường xuyên cập nhật kho học liệu số dùng chung, 
gồm: Bài giảng, giáo trình, đề thi điện tử, học liệu số đa phương tiện, 
phần mềm mô phỏng và các học liệu khác. Tiếp tục xây dựng và thường 
xuyên cập nhật hệ thống ngân hàng câu hỏi trực tuyến của các môn học và 
phần mềm kiểm tra, đánh giá tập trung qua mạng phục vụ sinh viên, giảng 
viên trên nguyên tắc thiết thực, hiệu quả. Ngoài ra, các cơ sở đào tạo 
du lịch phải đầu tư xây dựng và hoàn thiện cổng thư viện số (giáo trình,
 bài giảng, học liệu số) liên thông, chia sẻ học liệu với các cơ sở đào 
tạo khác nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu, đào tạo trong giáo dục đại 
học; triển khai hệ thống học tập trực tuyến (E-learning); khai thác, ứng
 dụng các phần mềm quản lý doanh nghiệp du lịch, khách sạn, lữ hành vào 
trong quá trình giảng dạy cho sinh viên.
	4. Kết luận
	Nguồn lực con người là yếu tố quyết định mọi hoạt động - điều mang tính “chân lý”
 này thường được nhắc đến và được khẳng định ở mọi bình diện từ một tổ 
chức nhỏ đến quốc gia lớn, từ một khu vực đến toàn cầu. Nhưng không phải
 ở đâu, bất cứ ai và khi nào cũng nhận thức đầy đủ về tính quyết định 
của nguồn nhân lực và giành nguồn lực cho việc đào tạo phát triển nguồn 
nhân lực, do nguồn lực không có nhiều lại bị các nhiệm vụ cấp bách khác 
chi phối. Hiện tượng phổ biến khi phân bổ nguồn lực cho chiến lược, 
chính sách phát triển thường bao giờ cũng ưu tiên cho xây dựng cơ sở hạ 
tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật và chi thường xuyên, còn nguồn lực cho đào
 tạo nguồn nhân lực thường xếp vào hàng thứ yếu. Đào tạo và phát triển 
nguồn nhân lực du lịch của Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng như 
vậy.
	Trước bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, ngành Du lịch Việt Nam 
đang gặp những thách thức không nhỏ về nhiều mặt, trong đó có yếu tố về 
nhân lực. Nhân lực ngành Du lịch có vai trò quyết định không chỉ cho 
riêng sự phát triển du lịch mà còn góp phần không nhỏ vào việc thực hiện
 công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiều năm qua, ngành Du lịch đã
 có những cố gắng huy động cộng đồng, các thành phần kinh tế và sự hỗ 
trợ của quốc tế cho phát triển nhân lực. Công tác phát triển nhân lực 
ngành Du lịch mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng vẫn còn 
nhiều bất cập cần giải quyết.
	Những hạn chế yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là 
đến nay ngành Du lịch vẫn chưa có chương trình, kế hoạch dài hạn về phát
 triển nhân lực để định hướng đúng, có hệ thống và đáp ứng yêu cầu đặt 
ra. Vì vậy, việc phát triển nhân lực ngành Du lịch để đáp ứng yêu cầu 
phát triển du lịch nhanh và bền vững, thực sự trở thành ngành kinh tế 
mũi nhọn, đóng góp tích cực và hiệu quả hơn vào sự nghiệp công nghiệp 
hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức của đất nước là một 
việc làm cần thiết, xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn. Với mục tiêu 
phát triển nhân lực du lịch có hệ thống; tăng cường số lượng, nâng cao 
chất lượng, tính chuyên nghiệp và hợp lý hóa cơ cấu nhân lực ngành Du 
lịch; nâng cao năng lực và chất lượng của hệ thống đào tạo du lịch đáp 
ứng yêu cầu hội nhập khu vực; và nâng cao nhận thức cộng đồng về du lịch
 và nhân lực ngành Du lịch; tạo động lực và lợi thế thúc đẩy du lịch 
phát triển nhanh và bền vững, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
	TS. Đoàn Mạnh Cương - Vụ Đào tạo, Bộ VHTTDL