Đình Sơn Đồng thuộc xã Sơn Đồng, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội gắn với nhiều truyền thuyết về Thành hoàng làng, thờ phụng Đông Nhạc Giáng Thần (Thần núi), Vương Thanh Cao, một vị tướng tài dưới trướng vua Đinh Bộ Lĩnh thời 12 sứ quân (944 - 968) và trước đó, có thể là đền thờ Nhị vua Hai Bà Trưng.
“Sơn Đồng có tục bó mo/ Bánh giầy bánh cuốn đãi cho bạn bè”.
Sơn Đồng (xã Sơn Đồng, huyện Hoài Đức, Hà Nội) vốn là làng bách nghệ, có lịch sử
hình thành và phát triển hàng nghìn năm.
Hiện nay Sơn Đồng nổi tiếng về nghề mộc mỹ nghệ, đồ thờ tự
sơn son thếp vàng. Về Sơn Đồng, du khách có dịp ghé thăm và tìm hiểu nhiều di
tích quý giá, trong đó có ngôi đình cổ gắn với truyền thuyết hấp dẫn.
Tam quan đình Sơn Đồng.
Ngôi đình và những câu chuyện truyền kỳ
Đình Sơn Đồng gắn với nhiều truyền thuyết về Thành hoàng
làng, thờ phụng Đông Nhạc Giáng Thần (Thần núi), Vương Thanh Cao, một vị tướng
tài dưới trướng vua Đinh Bộ Lĩnh thời 12 sứ quân (944 - 968) và trước đó, có thể
là đền thờ Nhị vua Hai Bà Trưng.
Ngoài truyền thuyết về người học trò nghèo Vương Thanh Cao,
theo một truyền thuyết khác thì Thành hoàng làng Sơn Đồng là đức thánh Đào Trực,
có công mở trường dạy học và hành nghề chữa bệnh cứu người ở Sơn Đồng.
Do đình làng không còn lưu giữ được sắc phong và thần phả
nên việc xác định Thành hoàng chịu ảnh hưởng của truyền thuyết. Còn căn cứ vào
các tư liệu cổ và dấu tích trên các di vật trong đình, như bức đại tự “Thánh Hậu
Vương từ”, thì có thể nhận định đây vốn là một ngôi đền cổ thờ mẫu, sau được mở
mang, xây dựng với quy mô lớn hơn, trở thành đình làng.
Việc lưu truyền các phong tục tế lễ như tục bó mo, trò chơi
giằng bông giúp khẳng định tiền thân của ngôi đình là đền thờ mẫu. Trong lễ hội
làng, vào ngày mùng 6 tháng Hai (âm lịch) hằng năm luôn có tục dâng lễ vật là
bánh giầy, bánh cuốn.
Những khảo cứu địa phương cho rằng, ban đầu ngôi đền được dựng
để thờ Nhị thánh vương Hai Bà Trưng, khi Nhị vua tử trận trên sông Hát, nhưng đề
tự là thờ Mẫu để tránh tai mắt của quân Mã Viện.
Theo các nhà nghiên cứu thì lễ hội làng Sơn Đồng gắn liền với
sự tích Hai Bà Trưng đánh giặc. Trong lễ hội làng từ ngày mùng 5 đến ngày mùng
6 tháng Hai âm lịch có hai lễ tục độc đáo là tục bó mo và giằng (cướp) bông, được
coi là ánh xạ đặc biệt của việc luyện binh và tích lương hành quân đánh giặc từ
xa xưa.
Một truyền thuyết nữa liên quan đến kiến trúc của ngôi đình.
Đình Sơn Đồng nhìn hướng Tây Nam, tọa lạc trên trán rồng theo thuật phong thủy.
Văn bia trong đình ghi rõ: “Năm Duy Tân thứ 7 (1913), hai
thôn quyết định tu sửa mả rồng, long mạch chạy dài về đình, không ai được làm
thương tổn, đứt đoạn. Từ nay về sau cấm đào bới’’.
Đình làng Sơn Động
Mâm bánh dầy dự thi trong lễ hội làng Sơn Đồng.
Rước kiệu bánh vào đình dự thi.
Theo những tư liệu viết bằng chữ Nho mà cụ Nghiêm Quốc Đạt,
thủ văn đình Sơn Đồng thu thập được, đình làng Sơn Đồng có từ thời Hai Bà Trưng
(năm 30 – 40 sau Công nguyên).
Cụ Đạt cho biết: “Trước đây trong dịp sửa chữa đình chúng
tôi đào được một tấm bia ghi rõ: Năm Duy Tân thứ 7 (1913) hai thôn quyết định
tu sửa mả rồng, long mạch chạy dài về đình, không ai được làm thương tổn, đứt
đoạn. Từ nay về sau cấm đào bới, ai không tuân theo sẽ bị thần linh tru diệt”.
Trên nghi môn của tấm bia có hàng chữ đại tự Thánh Hậu Vương Từ. Điều đó cũng
là cơ sở đình làng thờ là nữ thần,”cụ Đạt cho biết.
Theo tư liệu cụ Đạt thu thập được, làng Sơn Đồng có nhánh
sông Hát chảy qua. Có thể cuộc chiến đấu với quân Mã Viện thất bại Hai Bà Trưng
đã nhảy xuống sông Hát tự vẫn. Dân làng lập đình thờ tôn Hai Bà Trưng làm Thành
hoàng làng. Trong đình hiện nay còn có tấm yếm, áo đào. Hai bên thanh phong có
hai con phượng. Một bên là lương có bông lúa tượng trưng, một bên là cây gậy tượng
trưng cho binh khí. Đình làng có 7 sắc phong, đời vua Quang Trung thứ 6 có nói
về nữ tướng.
GS Hoàng Phương thuộc Hội Vật lý Việt Nam khi về thăm đình,
khảo cứu các di vật còn lại cho rằng, đình làng Sơn Đồng thờ Thành hoàng làng
là nữ tướng. Cụ Đạt nhận định: “Có thể khi xây đền thờ Nhị vua Hai Bà Trưng dân
làng không dám đặt tên mà chỉ đặt là thờ Thánh Mẫu, vì sợ quân Mã Viện biết được
sẽ đến phá hoại”.
Ngọc phả đền Thượng và chùa Diên Phúc của làng ghi: “Sau chiến
thắng quân Minh, vua Lê Lợi dẫn binh qua đất Sơn Đồng thấy có đền và miếu, mới
gọi cố lão bản trang để hỏi. Mọi người tâu rằng, làng chúng tôi thờ hai vị. Vị
thứ nhất là Đương Cảnh Thành hoàng tự Hùng triều, vị thứ hai là Thái phó thời
Tiền Lê. Cả hai vị này có cách đây cũng phải hàng nghìn năm. Nghe vậy, vua Lê Lợi
đã ban cho dân làng hai hũ vàng để sửa chữa, tôn tạo đền chùa”.
Lễ hội "Giằng Bông", biến tướng của hoạt động luyện
binh
Theo cụ Phan Văn Năm, thủ từ đình Sơn Đồng, phong tục giằng
bông của làng có từ xa xưa. Từ chiều mồng 4 hai thôn Nội và Ngoại phải phân
công người đi kén chọn, mỗi thôn một cây bông. Cây bông là một đoạn tre đực
tươi dài đủ 5 đốt lấy theo ngũ phúc. Cây tre được chọn phải là cây có ngọn, đủ
lá. Thân thẳng, không kiến, không muội, không bị cộc ngọn, da xanh óng ả, cây
phải ở giữa khóm. Khóm tre đó phải là khóm tre của gia đình đủ phúc đức, hòa
thuận, không có đại tang.
Trong lễ hội không thể thiếu được bánh cuốn, bánh dày và thịt
trâu nướng. Tất cả các món ăn đó dân làng phải chuẩn bị trước cả tháng để làm lễ
cúng Thành hoàng làng. Đó đều là các món ăn xưa kia Nhị vua Hai Bà Trưng dùng để
khao quân.
Cụ Năm nói: “Giằng bông thu hút sự quan tâm của mọi người
trong làng, từ người già đến trẻ con đều muốn tham gia phần thi này. Từ xưa xưa
ông bà chúng tôi đều nghiệm rằng, người đàn ông nào cướp được cây bông trong lễ
hội thì sẽ sinh được con trai. Gia đình gặp nhiều điều may mắn. Chính vì thế từ
già đến trẻ đều dốc sức, tranh giành hy vọng sẽ giằng được cây bông. Mọi người
giành giật nhau có năm đến 7 ngày, 7 đêm mới tìm ra được người thắng cuộc”.
Tục bó mo là tục thi làm bánh giầy trong cả làng. Các gia
đình làm bánh để đãi khách, các xóm làm bánh để dự thi, ban khánh tiết của làng
làm bánh để tiếp quan khách và làm phần thưởng. Nguyên liệu là gạo nếp quýt hoa
vàng, phải đồ xôi chín, dẻo rồi giã xôi trên chiếc mẹt mỏng với chày giã dài bằng
nửa sải tay, một đầu bọc bằng mo cau.
Bó mo là bó đầu chày bằng mo cau, nhưng không dùng nguyên
chiếc mà phải tước phần lụa ở lòng mo ra thành từng nan, đan thành phên kín rồi
bó vào đầu chày, buộc chặt bằng lạt giang.
Có nhiều hình tượng gợi liên tưởng đến tín ngưỡng phồn thực
của người Việt như: Mo cau bọc đầu chày; một nửa bánh nặn thành những chiếc
bánh giầy tròn, không có nhân, cứ hai chiếc kẹp thành một cặp; còn nửa kia nặn
thành những chiếc bánh giầy cuốn, to bằng chuôi liềm, bên ngoài bọc lá chuối,
trong có nhân đậu xanh rang, nghiền nhỏ, trộn mật. Bộ bánh gồm một cặp bánh giầy
tròn và một chiếc bánh giầy cuốn.
Kiệu bánh dự thi của mỗi xóm gồm một mâm bồng, bốn chân gỗ
chạm đầu rồng và hai đòn khiêng cũng chạm đầu rồng. Tất cả đều là đồ sơn son thếp
vàng tinh xảo do chính người làng làm ra. Kiệu bánh đạt giải cao nhất được rước
vào đặt cúng trước cửa cung; phần thưởng đi kèm là một cặp bánh giầy, và bánh
cuốn. Trong lễ hội, các món ăn như bánh cuốn, bánh giầy, thịt trâu nướng... được
cho là các món mà Hai Bà Trưng đã dùng để khao quân.
Sau tuần tế giã là tới hội giằng bông. Cây bông là một đoạn
tre đực gồm 5 đốt (ngũ phúc), được cạo sạch tinh, tước ập vào xung quanh mấu, tạo
thành đám bông tre xù tròn rồi nhuộm phẩm ngũ sắc; ống tre cũng được dán bằng
những băng giấy màu. Cây bông cũng là một biểu tượng trong tín ngưỡng phồn thực.
Tục truyền, đàn ông giằng được cây bông sẽ sinh con trai, trẻ
em có túm bông đeo vào cổ sẽ có khước (điều tốt lành, may mắn), cuộc giằng bông
càng vui thì năm ấy làng càng may mắn... Người giằng được bông sau khi làm lễ tạ
ở đình thì mang về đặt trên ban thờ của nhà.
Quanh ngôi đình Sơn Đồng còn rất nhiều câu chuyện lý thú. Phải
đến tận nơi, “tai nghe, mắt thấy” mới rõ giá trị của di tích. Tiềm năng du lịch
ở làng nghề Sơn Đồng đang được khai thác, lịch trình các tour không thể để khuyết
địa chỉ này.
Nguồn: Đồ thờ tâm linh
Tư liệu Ảnh: Nguyễn Huân/Đền Miếu Việt