• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
Văn hóaGiá trị lịch sử
  • UKEnglish

Giá trị lịch sử

Danh tướng Hoàng Cống – Cống Sơn- quân sư ít biết của Nhị vua Hai Bà Trưng

Cuộc khởi nghĩa năm Canh Tý (40) lật đổ chế độ cai trị nhà Hán, giành được độc lập do nhiều yếu tố, với đóng góp sức lực, xương máu, của cải, tài trí của nhân dân, của những người con yêu nước vì nghĩa lớn; trong số đó có danh tướng Cống Sơn – mưu sĩ của Nhị vua Hai Bà Trưng.

Về cuộc khởi nghĩa của Nhị thánh vương Hai Bà Trưng, các sử gia thường nhắc đến các nữ tướng kiên trung, dũng cảm mà ít đề cập tới các nam tướng chí dũng song toàn, chính bởi vậy hậu thế không mấy ai biết đến một danh tướng, nhà quân sư mưu lược trong cuộc khởi nghĩa gây chấn động triều Hán năm Canh Tý (40) thế kỷ thứ I Công Nguyên.

Theo ngọc phả đình Bạch Trữ (nay thuộc xã Tiến Thắng, huyện Mê Linh, Hà Nội) thì danh tướng Cống Sơn tên thật là Hoàng Cống, quê ở động Hoa Lư, phủ Trường Yên thuộc châu Ái ( (nay thuộc Hoa Lư, Ninh Bình), xuất thân trong gia đình nhiều đời làm nghề thuốc, cha là Hoàng Công Tạo, mẹ là Đinh Thị Điền.

Vợ chồng ông Hoàng Công Tạo chỉ sinh được một người con là Hoàng Cống vào ngày mồng 10 tháng Giêng năm Qúy Hợi (năm thứ 3 SCN). Từ nhỏ Hoàng Cống đã nổi tiếng mưu trí, lớn lên văn võ toàn tài. 

Năm Hoàng Cống tròn 22 tuổi, cha mẹ nối nhau qua đời. Ông Đinh Đạm đang giữ chức trưởng bộ ở bộ Vũ Ninh (nay thuộc Bắc Ninh), cậu ruột của Hoàng Cống cho người gọi cháu ra Bắc để có thêm trợ thủ trong mưu đồ việc lớn. 

Nhưng việc chuẩn bị khởi nghĩa của ông Đinh Đạm bị bại lộ, Thái thú Tô Định cho quân đến đàn áp, vây bắt và giết hại. Anh kiệt Hoàng Cống phải bỏ trốn trở về Hoa Lư làm nghề dạy học, lấy nơi dạy dỗ làm điểm bí mật gặp gỡ các nghĩa sĩ đồng chí hướng để mưu tính kế sách chống giặc, chờ cơ gội nổi dậy khởi nghĩa. 

Khi truyền hịch kêu gọi, vận động chuẩn bị lực lượng đứng lên lật đổ ách đô hộ của nhà Hán, nghe tin ở Hoa Lư có Hoàng Cống là người đức độ, có danh tiếng lại đa mưu túc trí, Bà Trưng Trắc đã cử em gái là bà Trưng Nhị thân đến mời ra phù giúp. Gặp những người đồng chí hướng, ông Hoàng Cống nhận lời ngay. Sau khi đàm đạo, Bà Trưng Trắc giao cho ông đảm trách việc “thao luyện binh mã, huấn diễn binh thư”.

Không chỉ là một vị tướng, Hoàng Cống đóng góp nhiều mưu lược, kế sách chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa, được Vương bà Trưng Trắc khen ngợi phong làm quân sư. 

Sống anh hùng, chết vẻ vang, muôn đời ơn nhớ

Ngày 6 tháng giêng năm Canh Tý (năm 40) Trưng Trắc cho hội quân ở bãi Trường Sa bên cửa sông Hát làm lễ tế cờ:

Một xin rửa sạch quốc thù,

Hai xin nối lại nghiệp xưa họ Hùng.

Ba kẻo oan ức lòng chồng,

Bốn xin vẹn vận sở công lênh này.

(Trích Thiên Nam ngữ lục diễn ca)

Nữ chủ Trưng Trắc bước lên đàn làm lễ tế cáo trời đất, xin tổ tiên và chư vị thần linh phù hộ: “Xét như nước ta, từ thuở trước đều có các bậc anh minh đời đời sáng nghiệp, là đất nước nhân nghĩa, có giáo hóa nên dân chúng yên ổn, vui đời làm lụng chuyên cần, chẳng biết đến binh đao.

Nay Tô Định là loài dê chó, hống hách lộng quyền, tàn bạo, ức hiếp, ngược đãi dân ta khiến đất trời, thần linh, người người đều căm giận. Con là cháu xa Hùng Vương, nhắc đến cảnh dân tình là sa nước mắt; hôm nay, đau lòng vì nước, dựng nghĩa trừ kẻ hung tàn, bạo ngược, cúi xin chư vị thần linh về đàn tế chứng giám cho.

Con nguyện dấy binh dẹp giặc cứu nước, cứu dân thoát khỏi vòng nước lửa, lầm than; không phụ lòng của trời cao, không phụ vẻ linh thiêng của tông miếu. Xin các vị tiên tổ anh linh hô mây, gọi gió, dồn âm binh hàng ngàn hàng vạn đội phù giúp đánh giặc”

Sau đó bà Trưng Trắc phát lệnh dấy binh khởi nghĩa, truyền hịch kêu gọi các quận huyện cùng nổi dậy đánh đuổi quân xâm lược, giành lại độc lập cho đất nước. Bài hịch viết rằng: “Kẻ đại gian ác từ lâu vốn lòng độc địa. Người có đức có nhân thường vẫn nuôi chí tiễu trừ. Mảnh hịch tre ruổi ngựa từ đêm, ba quân chấn động.

Nước ta dựng nền thực từ thuở vua Hùng vỗ trị, khi ấy quan dân vui vẻ, mọi người êm ấm nhàn hạ, mưa thuận gió hòa, một thân lúa thẩy đều hai bông. Đời đời nối tiếp, ngàn thu lưu truyền. Đến đời An Dương Vương, qua đời Triệu Vũ Đế, chẳng may đức suy, gặp phải tai ách. Bọn Hi Tải, Chu Chương, Ngụy Lang thay nhau làm quận thú cai trị.

Đám Đặng Nhượng, Tích Quang, Đỗ Mục nối tiếp làm châu mục. Dẫu tham lam, hà khắc không giống nhau, nhưng chưa từng có kẻ nào bạo ngược, tàn bạo quá lắm như Tô Định. Tới nay yêu nghiệt họ Tô tham tàn ngang ngược, giết hại sinh linh, coi sừng tê, ngà voi làm quý. Khinh miệt hiền tài, lấy giống chó loài ngựa làm trọng.

Khai mỏ vàng, khiến dân khốn khổ, rét thấu xương, mặt vàng, da nứt. Mò ngọc châu, để người lặn vực thẳm, mò ngọc trong mồm rồng ngậm, trăm kẻ đi, một người về. Thuế má nặng nề phải nghiêng bồ vét bịch. Hình pháp phiền phức liên lụy từng nhà, từng xóm. Dân không sống được yên, vật phải dời chỗ ở!

Ta vốn dòng dõi hoàng tộc, con cháu Hùng tướng, vì nghĩa trừ hại. Bọn các ngươi đều có trí khôn, lại cùng tiên tổ, thù nước phải báo. Hãy kề vai sát cánh mà giương cây cung mạnh, quét sạch bọn ngoại bang, lấy hết nước sông Thiên Hà mà rửa binh khí. Cơ nghiệp hùng vĩ do đó mà được tái tạo, nhân dân ly tán được yên vui.

Bảo vệ xã tắc, gối đầu trên giáo mác, chính là lúc này đây. Hãy lập công danh để ghi vào sử sách, như thế chẳng tốt đẹp hay sao? Thảng hoặc kẻ nào còn hồ nghi, do dự thì xem hịch này sẽ được sáng tỏ. Các ngươi cần phải cố gắng lên!” (Theo Thiên Nam vân lục). Tương truyền người soạn bài hịch này chính là Hoàng Cống. 

 

Từ Mê Linh, nghĩa quân chia thành các đạo binh tiến đánh hàng loạt thành lũy, đồn trại của giặc; sử chép: “Các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng, lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam” (Đại Việt sử ký toàn thư). 

Sau thắng lợi, bà Trưng Trắc lên ngôi vua (Trưng Vương), phong tước, ban thưởng cho những người có công; Hoàng Cống được phong làm Hùng tướng công, được ban đất làm thực ấp ở Thủy Trung châu (còn gọi là Kẻ Bạch, sau gọi là Bạch Trữ) thuộc huyện Chu Diên, lại cho đón gia quyến của ông về đây lập nghiệp; dân làng Bạch Trữ cũng được chuẩn miễn thuế khóa, phu dịch.

Năm Nhâm Dần (42), sau thời gian chuẩn bị lực lượng, vua Hán sai Mã Viện làm tướng dẫn quân sang đánh báo thù, mục đích tái lập ách đô hộ của chúng. Nhiều trận giao tranh ác liệt đã xảy ra, nhưng thế giặc mạnh, chúng vẫn tiến sâu vào nước ta, một trong những trận đánh lớn xảy ra ở Lãng Bạc (nay thuộc huyện Tiên Du, Bắc Ninh).

Hoàng Cống thấy tình thế bất lợi đã dẫn đội quân của mình đánh thẳng, thọc sâu vào doanh trại giặc khiến chúng bất ngờ, lúng túng đối phó, nhờ đó Trưng Vương có thời gian rút đại quân về xây dựng phòng tuyến ở Cấm Khê.

Tiếp sau đó là trận đánh ở Cấm Khê, quân ta thất bại, Hai Bà Trưng và nhiều tướng lĩnh hy sinh tại đây; còn Hoàng Cống từ trận Lãng Bạc, ông đem lực lượng còn lại rút về đất phong của mình ở Bạch Trữ (nay thuộc xã Tiến Thắng, huyện Mê Linh, Hà Nội) tiếp tục chiến đấu chống giặc.

Tương quan lực lượng quá chênh lệch nên trong một trận huyết chiến, Hoàng Cống cùng một số tướng sĩ của mình đã tử trận, theo truyền tụng dân gian thì đó là ngày 11 tháng Chạp năm Qúy Mão (43), có thuyết nói là năm (47).

Hàng năm vào ngày này, người dân làng Bạch Trữ lại tổ chức lễ hội kỷ niệm ngày giỗ trận tại bãi Đồng Số, xưa là nơi Hoàng Cống luyện quân và cũng là nơi diễn ra trận chiến đấu cuối cùng của ông. 

Nhớ ơn vị tướng tài, người quân sư mưu lược có nhiều đóng góp vào sự nghiệp đánh giặc cứu nước, người dân Bạch Trữ đã lập đền thờ Hoàng Cống. Đến giai đoạn độc lập, tự chủ lâu dài, khi mà tín ngưỡng thờ Thành hoàng phát triển và phổ biến rộng rãi đến các làng quê, người dân đã tôn Hoàng Cống là Thành hoàng làng; các triều đại có sắc phong Hoàng Cống là Phúc thần, quân sư Cống Sơn đại vương.

Đình làng Bạch Trữ

Là một trong những ngôi đình lớn và cổ của Vĩnh Phúc, đình Bạch Trữ được biết đến với sự độc đáo về kiến trúc, chứa đựng những tác phẩm điêu khắc gỗ dân gian hết sức đặc sắc, nối tiếp dòng nghệ thuật chảy từ vùng Hùng Lô, Lâu Thượng qua Thổ Tang đến, như một biểu hiện cho đỉnh cao về kiến trúc của đình làng cổ truyền Việt Nam thời Lê Trung hưng thịnh.

 

 Tiền tế

 Cảnh đình nhìn từ xa

Đình thuộc thôn Bạch Trữ, xã Tiến Thắng, huyện Mê Linh. Hiện tại gồm 3 tòa: Tiền tế, đại đình, hậu cung và 2 ống muống. Về mặt bố cục có thể khẳng định rằng, vỗn dĩ khởi đầu (khoảng cuối thế kỷ XVII) đình chỉ có dạng chữ nhất với toà đại đình ở giữa, về sau người ta mới dựng tiếp toà tiền tế và tiếp sau là hậu cung; cả 3 tòa được nối với nhau bởi 2 ống muống để tạo nên hình thức mái theo kiểu chữ “Vương”, nền chữ “Tam”.

Trước đình có hồ bán nguyệt, sau hồ là bình phong kiểu cuốn thư có hình cành trúc mai sum họp. Phía sau là một sập thờ làm kiểu chân quỳ dạ cá đắp nổi hình dơi tượng cho ngũ phúc lâm môn (Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh) và tiếp nữa là một nghi môn tứ trụ. Qua một khoảng sân hẹp vào tòa tiền tế, người ta có thể cảm thấy choáng ngợp bởi kiến trúc 5 gian 2 dĩ với bộ mái 2 tầng hoành tráng.

Đặc biệt ở đây còn lưu giữ được những nét nghệ thuật của thế kỷ XVII. Đó là những cốn bên với rồng, lân, vân xoắn, đao trong một thể hoạt mang ý nghĩa gắn với tầng trời, gắn với ước vọng cầu mưa. ở gian giữa tòa này có các bức cốn mê thể hiện tứ linh trong ước vọng cầu phúc xưa: rồng cuốn thủy, phượng hàm thư, long mã và rùa.

Đặc biệt, ở mặt trong bức cốn ngoài bên phải có hình tượng một con cua nhỏ ở bên dưới, đây là một dấu ấn thể hiện sự hòa đồng của chất dân dã giữa mảng chạm mang đầy tính quy phạm.

 Văn quan - Hình vẽ trên gỗ phía trước cửa khám (bên tả)

Tòa đại đình 3 gian 2 chái 2 dĩ, nghệ thuật thế kỷ XVII tập trung ở 2 cốn ngoài của gian giữa, các đầu dư chính và một số kẻ. Đề tài chạm khắc cơ bản là rồng. Những đề tài về con người tuy không nhiều nhưng lại rất đáng quan tâm.

Chẳng hạn như bức cốn ngoài bên trái gian giữa, ở con rường trên cùng, được đặt trên mình rồng thân rắn không vẩy là hình đôi trai gái tình tự mà nam là một ông già quắc thước râu dài còn nữ là một cô gái nhỏ tuổi - một mối tình thần thánh sẽ đưa đến kết quả nảy sinh thánh nhân theo nhận thức của người xưa.

Một hệ thống các hoạt cảnh khác như: trên nền rồng ở ván nong của xà nách có cảnh một phụ nữ ôm con, một tay giơ ra như thể từ chối sự đòi hỏi của người chồng; cạnh đó là cảnh đôi trai gái ngồi ôm ấp nhau rất mạnh bạo; hình tượng vũ công đội mũ tỳ lư mặc áo váy tỉa tót kỹ càng và hình ảnh nam múa quạt, nữ đeo túi ngả theo được chạm ở hai bên đầu kẻ phía ngoài bên phải. ở một đầu kẻ trước của gian bên trái lại có cảnh một ông lão ngồi câu cá với giỏ vịt để bên cạnh - hình tượng này rất gần gũi với nghệ thuật thế kỷ XVIII.

Những hình tượng có tính mạnh bạo hay dân dã trên cho thấy sự gần gũi với sinh hoạt thôn dã đương thời. Tuy nhiên những hình tượng đó được đặt ở những nơi dễ quan sát lại mang ý nghĩa ước vọng cầu thần hãy thực hiện theo như thế mà thúc đẩy cho muôn loài sinh sôi, cho mùa màng bội thu.

Vì thế ý nghĩa sâu xa ở đây là ước nguyện cầu phồn thực. Bên cạnh sự phong phú về nội dung, các hình chạm đã thể hiện trình độ cao về nghệ thuật chạm khắc với kỹ thuật chạm lộng, chạm bong được quan tâm hết sức rõ rệt.

 Trang trí ở cửa võng

 "Tự tình" Chạm gỗ thế kỷ XVIII

 
 

Tòa hậu là một hậu cung kép với hậu cung chính chỉ nằm gọn trong không gian 4 cột cái gian giữa, được bao ván kín, có sàn thờ, được nâng cao và nằm lọt trong tòa hậu cung 5 gian tường hồi bít đốc.

Một điểm đáng lưu ý là trên ban thờ chính, phù trợ hai bên là 8 vị tướng hầu được vẽ dưới hình thức tả văn hữu võ, quan văn đội mũ cánh chuồn chếch ngắn, cầm những hòm sách, bút, quạt; quan võ đội mũ kim khôi và vác đại đao.

Đình Bạch Trữ thờ nhị vị tiên linh là công chúa Mỵ Nương thời vua Hùng và Cống Sơn thời Hai Bà Trưng, thuộc hai thời kỳ dựng nước và giữ nước gắn với lịch sử dân tộc và văn hóa tâm linh của người Việt.

Nội dung thờ tự phong phú, kiến trúc, nghệ thuật chạm khắc tiêu biểu đã khẳng định đây là một trong những ngôi đình có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hệ thống di tích của tỉnh Vĩnh Phúc.

Đình xưa còn giữ được đến ngày nay là một kiến trúc lớn, là nơi thờ thành hoàng làng, nơi tổ chức lễ hội và các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng khác của dân cư cả một vùng tương đối rộng.

Đi sâu tìm hiểu hơn nữa về nghệ thuật, về các giá trị văn hóa vật thể gắn kết với các giá trị văn hóa phi vật thể ở đình Bạch Trữ , chúng ta sẽ có được những tri thức quý báu về lịch sử văn hóa cũng như các phong tục tập quán hay những quan niệm hết sức đặc sắc có thể coi là tinh hoa văn hóa của người xưa, tại vùng đất này.

 
Trở về đầu trang
   Danh tướng Cống Sơn quân sư khởi nghĩa Hai Bà Trưng
0   Tổng số:

Các tin khác

  • Đình Thanh Sơn, thờ phụng Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát và Châu Lan Đại vương
  • Nghệ thuật kiến trúc đặc sắc của Đình đá Tiên Phong
  • Hà Nam: Đình Quan Phố đón nhận Bằng xếp hạng Di tích cấp quốc gia
  • Đình Quan Phố và những nét kiến trúc nghệ thuật độc đáo
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật
  • Di tích đền phủ Ninh Xá ở Nam Định nơi lưu giữ 28 đạo sắc phong
  • Đình Nghĩa Chỉ, Tiên Du, thờ phụng Phùng Hưng và hai vị thủy thần
  • Đình, nghè Mai Động, thờ phụng Đô úy Tam Trinh triều Nhị vua Hai Bà Trưng
  • Đình Tây Đằng – Bảo tàng nghệ thuật kiến trúc thế kỷ 16
  • Di tích phòng tuyến sông Như Nguyệt - Địa danh gắn với chiến thắng lịch sử chống quân Tống
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Long An phát triển du lịch qua di tích lịch sử - văn hóa

    165
  • Quảng Nam: Tây Giang hướng đến phát triển du lịch xanh

    121
  • Hải Dương: Phường rối nước Thanh Hải được công nhận là điểm du lịch

    119
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật

    113
  • Cung đường mới - động lực lớn cho phát triển du lịch hồ Ba Bể (Bắc Kạn)

    109

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2025 Trang thông tin du lịch