Chùa Dâu, còn có tên là Diên Ứng (延應寺), Pháp Vân (法雲寺), hay Cổ Châu, thuộc phường Thanh Khương, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30 km. Đây là trung tâm Phật giáo cổ xưa nhất của Việt Nam. Chùa còn được người dân gọi với những tên gọi khác nhau như chùa Cả, Cổ Châu tự, Diên Ứng tự, Thiền Định tự.
Chùa Dâu có lịch sử hình thành sớm nhất, là ngôi chùa cổ nhất
Việt Nam. Mặc dù các dấu tích vật chất không còn do đã được xây dựng lại và tu
sửa nhiều lần. Chùa là một danh lam bậc nhất của xứ kinh Bắc xưa nay. Chùa Dâu
là di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4 năm 2013.
Chùa nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu. Tại vùng
Dâu có năm ngôi chùa cổ: chùa Dâu thờ Pháp Vân (法雲寺, "thần mây"), chùa Đậu
thờ Pháp Vũ (法雨寺,
"thần mưa"), chùa Tướng thờ Pháp Lôi (法雷寺, "thần sấm"), chùa Dàn
thờ Pháp Điện (法電寺
"thần chớp") và chùa Tổ thờ Man Nương là mẹ của Tứ Pháp. Năm chùa này
ngoài thờ Phật còn thờ Tứ Pháp.
Trong Tứ Pháp thì Pháp Vân đứng đầu, Thạch Quang Phật (tảng
đá trong cây Dung thụ) luôn ở bên Pháp Vân và Pháp Vân đại diện cho cả Tứ Pháp,
mỗi khi triều đình thỉnh tượng về kinh đô cầu đảo, có thể rước cả bốn tượng hoặc
chỉ mình Pháp Vân.
Có thể nói Tứ Pháp thì Pháp Vân, Pháp Vũ được thờ cúng rộng
rãi hơn cả nhưng Pháp Vân là trọng tâm, nên Chùa Dâu đã trở thành trung tâm của
tín ngưỡng này ở cả vùng Dâu lẫn cả nước.
Lịch sử
Chùa được xây dựng vào buổi đầu Công Nguyên. Các nhà sư Ấn Độ
đầu tiên đã từng đến đây. Vào cuối thế kỷ 6, nhà sư Tì-ni-đa-Lưu Chi từ Trung
Quốc đến tu hành tại chùa, lập nên phái Thiền ở Việt Nam. Chùa được khởi công
xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226, là ngôi chùa lâu đời nhất và gắn liền với
lịch sử văn hóa, Phật giáo Việt Nam, được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử
ngày 28 tháng 4 năm 1962.
Chùa Dâu gắn liền với sự tích Phật Mẫu Man Nương thờ tại
chùa Tổ ở làng Mèn, Mãn Xá cách chùa Dâu 1 km và Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi
Truyền thuyết Mạc Đinh Chi
Đến đời Trần, chùa Dâu được mở rộng quy mô hơn, đặc biệt là
từ sự kiện vào năm Qúy Sửu (1313), Vua Trần Anh Tông đã sai trạng nguyên Mạc Đĩnh
Chi về kiến thiết lại chùa Dâu thành chùa thuần Việt, quy mô to đẹp hơn, kiến
trúc "nội công, ngoại quốc", có trăm gian, có tháp 9 tầng, cầu 9 nhịp
kiểu "thượng gia hạ kiều" (cầu có mái).
Sách Đại Nam nhất thống chí, phần tỉnh Bắc Ninh có ghi:
"Đời Trần, Mạc Đĩnh Chi dựng chùa trăm gian, tháp 9 tầng và cầu 9 nhịp; nền
cũ nay vẫn còn". Hiện nay, ở tòa thượng điện, chỉ còn sót lại vài mảng chạm
khắc thời nhà Trần và thời nhà Lê.
Mạc Đĩnh Chi thực hiện sứ mệnh công đức này do theo một truyền
thuyết, ông nằm mơ thấy mẹ ông bị hành tội dưới địa ngục vì làm việc có lỗi. Đức
Phật bà Quan âm sẽ cho Diêm vương thả bà ra và cho đầu thai làm người nếu ông
xây một tòa tháp thờ Phật 9 tầng.
Truyền thuyết Man Nương
Man Nương hay nàng Mèn là một người con gái rất sùng đạo,
năm 10 tuổi đến theo học đạo ở chùa Linh Quang, nay là huyện Tiên Du, tỉnh Bắc
Ninh. Tại chùa có thiền sư Khâu Đà La là một vị cao tăng đầu tiên sang Việt Nam
truyền đạo tại đây.
Một hôm, thiền sư đi vắng và dặn Man Nương trông coi chùa cẩn
thận. Tối đến Man Nương ngủ ở thềm, Khâu Đà La về và bước qua người, sau đó bà
thụ thai. Cha mẹ Man Nương trách cứ thì Khâu Đà La dặn rằng đó là con Phật,
không phải lo phiền.
Hai mươi tháng sau, Man Nương sinh hạ một người con gái vào
ngày 8 tháng Tư (âm lịch), đem đến chùa trả lại Thiền sư. Ông dùng cây tầm xích
(gậy tích trượng) gõ vào cây Dung Thụ (dâu) ở cạnh chùa; cây dâu tách ra, thiền
sư để đứa trẻ vào trong, cây lại khép vào. Khâu Đà La trao cho Man Nương cây gậy
và dặn khi nào hạn hán thì đem gậy cắm xuống đất để cứu nhân dân.
Khi vùng Dâu bị hạn hán ba năm liền, nhớ đến lời dặn của
ông, Man Nương đã đem cây gậy thần cắm xuống đất. Ngay lập tức nước phun lên,
cây cối, ruộng đồng lại tươi tốt và chúng sinh thoát nạn hạn hán.
Tiếp đó có trận mưa to, cây dâu bị gió bão quật đổ xuống
sông Thiên Đức (sông Dâu) rồi trôi về Luy Lâu. Khi đó, Thái thú Sĩ Nhiếp cho
quân lính vớt lên để làm nóc điện Kính Thiên, nhưng không ai lay chuyển nổi.
Man Nương đi qua liền xuống sông, buộc dải yếm vào và bảo "Có phải con mẹ
thì đi lên theo mẹ" lập tức kéo cây lên dễ dàng.
Sĩ Nhiếp thấy thế kính sợ, tuyển mười người họ Đào tạc tượng
Tứ pháp là Pháp Vân - Pháp Vũ - Pháp Lôi - Pháp Điện tượng trưng cho Mây, Mưa,
Sấm, Chớp để thờ. Bốn bức tượng phật đó được đặt ở bốn ngôi chùa khác nhau ở
trên cùng một khu vực là Chùa Dâu, Chùa Đậu, Chùa Dàn, Chùa Tướng.
Khi thợ tạc tượng gặp trong thân cây một khối đá bèn vứt xuống
sông. Đến đêm thấy lòng sông rực sáng, Sĩ Nhiếp cho người vớt nhưng không tài
nào vớt được. Man Nương liền đi thuyền ra giữa sông thì khì khối đá tự nhiên nhảy
vào lòng. Khối đá ấy được gọi là Thạch Quang Phật (Phật đá tỏa sáng).
Kiến trúc
Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt Nam, chùa Dâu được
xây dựng theo kiểu "nội công ngoại quốc". Bốn dãy nhà liên thông hình
chữ nhật bao quanh ba ngôi nhà chính: tiền đường, thiêu hương và thượng điện.
Theo thư tịch cổ, chùa được khởi dựng ở vùng Dâu (Luy Lâu)
vào thế kỷ II đầu Công nguyên, thời kỳ Sĩ Nhiếp (nhà Hán) làm Thái thú quận
Giao Châu. Đây được coi là trung tâm Phật giáo đầu tiên của nước ta, là dấu
tích quan trọng gắn với quá trình hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam.
Chùa tọa lạc trên một khu đất cao, rộng, bằng phẳng, cảnh quan
đẹp, quay về hướng Tây, có bình đồ kiến
trúc kiểu “nội Công ngoại Quốc”, gồm các hạng mục: tam quan, tiền thất (bái vọng
đường), tháp Hoà Phong, Tam bảo, hậu đường, hai dãy hành lang và các công trình
phụ trợ, như: nhà Mẫu và Tổ, nhà khách, vườn tháp, ao chùa, hệ thống tường bao.
Tam quan gồm 3 gian, bộ khung gỗ gác trên 4 hàng chân cột, kết
cấu vì nóc kiểu “con chồng, giá chiêng, cốn, bẩy”. Các cấu kiện đều được bào
trơn đóng bén, mái lợp ngói, tường hồi bít đốc, mở thông thoáng cả 3 gian.
Tiền thất (bái vọng đường) gồm 7 gian, 2 chái, với mái lợp
ngói, đầu đao cong, bộ khung gỗ, các vì nóc đều được kết cấu theo dạng “tiền kẻ,
hậu kẻ, câu đầu, trụ nóc”, tì lực trên 4 đầu cột. Hầu hết cấu kiện ở tòa này đều
được bào trơn đóng bén, chỉ có những đầu kẻ ở gian giữa được chạm hoa lá cách
điệu. Nội thất bày một số bộ bàn ghế để khách thập phương sắp lễ, trước khi vào
lễ Phật.
Hai dãy hành lang: song song với nhau, nối tiền thất và hậu
đường. Mỗi dãy gồm 22 gian và được chia thành 2 phần: hành lang phía trước 12
gian và hành lang phía sau 10 gian, được ngăn cách bởi một bộ cửa ván bưng.
Hành lang phía sau là nơi thờ 18 vị La Hán.
Tháp Hoà Phong: được dựng ở giữa sân chùa. Theo thư tịch cổ,
vào thời Trần, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cho trùng tu chùa Dâu, xây tháp cao 9
tầng, nhưng kiến trúc của tòa tháp hiện còn là của thời Lê Trung Hưng.
Tháp được xây bằng gạch nung già, với 3 tầng, cao 15m. Tầng
thứ nhất, mỗi cạnh rộng 6,75m, cao 4,5m, bốn mặt đều có cửa, xây cuốn vòm. Tầng
thứ hai cao 4m, mỗi cạnh rộng 6,15m, có 4 cửa cuốn vòm. Trên cùng là vòm mái,
được xây cuốn bằng gạch, dánh khum như long đình.
Đỉnh tháp được tạo hình như một bình nước cam lộ. Trong lòng
tháp, phía dưới có bệ thờ “Tứ trấn” (Tứ Thiên Vương), bằng gỗ phủ sơn, cao
1,60m. Phía trên treo khánh đồng, chuông đồng.
Phía trước tam cấp cửa phía Tây có 2 tượng sóc đá, mang
phong cách nghệ thuật thời Lê Trung Hưng. Bên trái có một tượng cừu đá (dấu ấn
của văn hoá phương Bắc, phản ánh sự hiện diện của Thái thú Sĩ Nhiếp khi đóng trị
sở ở thành Luy Lâu). Trên tháp Hoà Phong hiện còn một tấm biển bằng đá xanh gắn
ở phía Tây (tầng hai) có đề 3 chữ “Hòa Phong tháp”.
Tiền đường: được dựng trên nền thấp hơn thượng điện 0,60m,
có chiều rộng 9,50m, chiều dài 21m, cao 0,37m, gồm 7 gian, 2 chái, hai hồi xây
bít theo kiểu cột trụ cánh phong. Toà này có 8 bộ vì kèo kiểu “câu đầu, trụ,
nóc, cốn, tiền kẻ, hậu bẩy”, kết cấu khung đỡ mái tì lực trên 32 đầu cột. Trên
các đầu kẻ, bẩy, cốn đều được chạm nổi hoa văn dạng mây lá, tứ linh, tứ quý,
triện dây. Trước nền nhà là tam cấp chạy suốt 5 gian giữa. Ở gian chính giữa có
2 thành bậc đá chạm rồng, dài 2,15m, cao 0,65m, mang phong cách nghệ thuật thời
Trần.
Tiền đường của chùa Dâu đặt tượng Hộ pháp, tám vị Kim Cương;
Gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng các vị Diêm Vương, Tam
châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi.
Thiêu hương: còn được gọi là ống muống, nối liền thượng điện
và tiền đường, có chiều dài 9,40m, rộng 5,55m, mặt nền thấp hơn thượng điện, gồm
3 gian. Hệ thống đỡ hoành mái gồm 4 bộ vì, mỗi vì đều được gác trên 4 đầu cột.
Trong tòa này đặt các ban thờ Thập điện Diêm Vương, Mạc Đĩnh Chi và Thái tử Kỳ
Đà.
Thượng điện: được dựng trên nền cao 1,27m, có mặt bằng hình
chữ nhật, dài 13,90m, rộng 10,65m, gồm 1 gian, 2 chái, với 4 bộ vì, 4 mái đao
cong. Đặc biệt, tại tòa này còn bảo lưu được hai bộ vì nóc kiểu “giá chiêng”, với
khoảng giữa gắn hình lá đề chạm nổi đôi rồng chầu mặt trời và hai trụ trốn bên
chạm nổi hình phỗng.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, đây là những bộ phận kiến
trúc/trang trí mang phong cách nghệ thuật thời Trần; cũng có nhà nghiên cứu lại
cho rằng kiến trúc mang phong cách nghệ thuật thời Mạc, tương tự như ở chùa
Thái Lạc và Bối Khê.
Thượng điện có các ban thờ Thượng điện để tượng Bà Dâu (Pháp
Vân), Bà Đậu (Pháp Vũ) và các hầu cận. Một trong những ấn tượng khó có thể quên
được ở nơi đây là những pho tượng thờ. Ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu, hay nữ
thần Pháp Vân, uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2 m được bày ở gian giữa.
Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi
liên tưởng tới người phụ nữ Ấn Độ và quê hương Tây Trúc. Hai bên là tượng Kim Đồng
và Ngọc Nữ. Phía trước là một hộp gỗ trong đặt Thạch Quang Phật là một khối đá,
tương truyền là em út của Tứ Pháp.
Bên trái của thượng điện có pho tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu
Chi, tượng được đặt trên một bệ gỗ hình sư tử đội tòa sen, có thể có niên đại
thế kỷ 14.
Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị phá huỷ thời kháng chiến chống
Pháp, nên tượng Bà Đậu (Pháp Vũ) cũng được đưa về thờ ở chùa Dâu. Tượng Pháp Vũ
với những nét thuần Việt, đức độ, cao cả. Những tượng này đều có niên đại thế kỷ
18.
Tòa Hậu đường 9 gian, 2 dĩ, bộ khung gỗ, vì nóc được kết cấu
theo kiểu “trụ, quá giang, kẻ”. Đây là nơi thờ Đức ông, Quan Âm, Thánh Hiền, Địa
Tạng Vương, Hậu Phật. Trung tâm điện Phật có các tượng Tam Thế, Quan Âm chuẩn đề.
Nhà thờ Tổ: nằm sát bên trái hậu đường. Đây là tòa nhà 5
gian, tường hồi bít đốc, bộ khung gỗ, vì kèo kiểu “”con chồng, giá chiêng, kẻ
truyền”. Tòa điện đặt ban thờ Tổ và thờ Mẫu.
Nhà Khách: gồm 7 gian, tường xây bít đốc, bộ khung gỗ lim,
vì nóc kiểu “con chồng, giá chiêng, quá giang, bẩy”.
Vườn Tháp: hiện còn 8 tháp gạch của các sư từng tu tại chùa,
có niên đại từ thời Lê đến thời Nguyễn.
Nhà Tiền thất gồm 7 gian, 2 chái, bên trong bày một số bộ bàn ghế để khách thập phương sắp lễ trước khi vào lễ Phật.
Hai dãy hành lang nối Tiền thất và Hậu đường.
Nổi bật nhất trong các công trình của chùa là tòa tháp Hòa Phong. Theo thư tịch cổ, vào thời Trần, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cho trùng tu chùa Dâu, xây tháp cao 9 tầng. Nhưng kiến trúc của tòa tháp hiện còn là của thời Lê Trung Hưng. Tháp được xây bằng gạch nung già, với 3 tầng, cao 15m.
Tháp Hòa Phong nhìn từ khoảng sân của nhà thờ tổ và thờ mẫu.
Bên ngoài tháp có tượng một con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m.
Trong tháp có 4 tượng Thiên Vương - 4 vị thần trong truyền thuyết cai quản 4 phương trời.
Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817.
Nhà Tiền đường gồm 7 gian, 2 chái. Trước nền nhà là tam cấp chạy suốt 5 gian giữa. Ở gian chính giữa có 2 thành bậc đá chạm rồng, mang phong cách nghệ thuật thời Trần. Tại Tiền đường có các ban thờ Hộ Pháp, Đức Ông, Đức Thánh Hiền, Bát Bộ Kim Cương.
Tượng Pháp Vân được thờ trong nhà Thượng điện.
Tượng các vị thập điện Diêm Vương dọc theo hai bên tường tòa Thiêu hương.
Tượng thờ trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi tại tòa Thiêu hương.
Tượng thờ Thập bát La Hán
Nhà thờ Tổ và thờ Mẫu.
Vườn tháp có niên đại từ thời Lê đến thời Nguyễn.
Chùa Dâu in đậm dấu ấn kiến trúc, điêu khắc của nhiều thời kỳ
lịch sử, với hệ thống tượng pháp mang nghệ thuật đặc sắc của thời Lê - Nguyễn,
đặc biệt là hệ thống tượng Tứ Pháp. Đây là một minh chứng sống động của sự dung
hội giữa Phật giáo Ấn Độ khi du nhập vào nước ta với tín ngưỡng bản địa của người
Việt, đã tạo nên một trung tâm tín ngưỡng, tôn giáo mang bản sắc dân tộc
Có câu thơ lưu truyền dân gian:.
Dù ai đi đâu về
đâu
Hễ trông thấy tháp
chùa Dâu thì về.
Dù ai buôn bán
trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám
thì về hội Dâu.
Ngày hội chùa Dâu được tổ chức rất long trọng và quy mô, tuyến
hành hương về nơi đất Phật còn mở rộng tới chùa Phúc Nghiêm - chùa Tổ - nơi thờ
Phật Mẫu Man Nương.
Nguyễn Khắc Đoài
(Theo Hồ sơ xếp hạng di tích - Tư liệu Cục Di sản văn hóa)
Nguồn:Báo Bắc Ninh