Đình, Chùa làng Đồng Kỵ (phường Đồng Kỵ), thành phố Từ Sơn, Bắc Ninh, đình thờ phụng đức thánh Thiên Cương, vị tướng giỏi của Vua Hùng Huy Vương, (Hùng Vương thứ 6) đã có cộng dẹp giặc Xích Quỷ, theo Thánh Gióng đánh giặc giặc Ân xâm lược. Chùa Đồng Kỵ thờ Phật.
Theo các nguồn tư liệu ở địa phương thì xưa làng Đồng Kỵ có
tên nôm là Cời có 3 đình thuộc 3 xóm Cời, Cọc, Cờ. Năm Cảnh Hưng thứ 6 (1745) 3
ngôi đình được nhập làm một.
Nằm ở phía Tây nam của làng, đình Đồng Kỵ được xây dựng từ
thời Lý, đến thời hậu Lê được xây dựng lại với quy mô lớn hơn và được trùng tu
vào thời Nguyễn.
Niên đại Khải Định (1916 - 1925) đình được tu sửa lớn. Đến
năm 1949 do yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, đình bị phá dỡ phần mái và
toàn bộ sàn. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp còn đang ở giai đoạn quyết liệt
thì vào năm 1951 dân làng đồng tâm hợp lực tu sửa đình như cũ.
Các bậc cao niên ở địa phương kể lại, trước đó đình có quy
mô đồ sộ, xây dựng chữ Vương. Sau những đổi thay, nay đại đình chỉ còn hai tòa
nối với nhau bằng ống muống có kết cấu hình chữ Công như hiện nay.
Đình làng Đồng Kỵ thờ Thiên Cương Đại Vương, vị thần có công
giúp Hùng Vương thứ 6 đánh giặc Xích Quỷ và tham gia đạo quân của Thánh Gióng
đánh giặc Ân.
Khi giặc Xích Quỷ xâm lược nước ta, Thánh Thiên Cương đã kêu gọi tráng đinh dân thôn Đồng Kỵ thành
lập đội nghĩa binh đánh giặc xâm lược bảo vệ bờ cõi.
Đình được xây dựng trên khuôn viên rộng hàng ha, kết cấu bao
gồm Tam Quan, sân đình, Đại đình bao gồm Tòa Bái đường, Thiêu hương (ống muống),
Hậu cung. Phía bên trái là chùa Đồng Kỵ. Trước đình là hồ nước rộng kè đá với
cây cầu uốn cong xây bằng đá xanh.
Cổng đình Đồng Kỵ được xây dựng kiểu Tam Quan đồ sộ với một
cổng chính hai cổng phụ, ba tầng 8 mái uốn đầu đao, hai bên là 4 trụ biểu chính
một cao một thấp, đắp nề trang trí nghê chầu. Tầng dưới cùng xây kiểu trụ biểu
4 cạnh, đỉnh trụ biểu trang trí tứ phượng
Kiến trúc đình làng được xây dựng theo kiểu chữ công, gồm:
tòa Đại bái, Thiêu hương và Hậu cung. Mái đình được thiết kế theo phong cách thời
Hậu Lê, 4 mái uốn cong đầu đao, trang trí hoa văn cách điệu, bờ nóc tòa Đại bái
đắp nề Lưỡng long Quán nhật.
Tòa Đại bái 4 gian 2 chái, Hậu cung 5 gian 2 chái, kết cấu
kiểu 4 mái, mỗi góc mái một đầu đao cong thanh thoát, toàn bộ khung đình được
làm bằng gỗ lim, các cấu kiện gỗ to khỏe, cột cái chu vi 1,8m, các bộ vì kèo
theo kiểu thức thượng con chồng, hạ câu đầu, kẻ bẩy, đầu dư, kẻ. Tất cả các cấu
kiện gỗ đều được chạm khắc trang trí nghệ thuật theo các chủ đề "tứ
linh", "tứ quý", tập trung chủ yếu vào hình tượng rồng, sử dụng
kỹ thuật chạm nổi, bong kênh mang đậm phong cách nghệ thuật thời Lê (thế kỷ
XVIII). Sàn đình cao 0,70m còn khá nguyên vẹn.
Ngôi đình cổ còn giữ được những cổ vật có giá trị mỹ thuật cổ
đại cao, trước cửa tòa Đại bái, trên bậc thềm đặt hai rồng đá, 2 sư tử đá có
kích thước lớn được chạm từ tảng đá xanh nguyên khối. Hệ thống hoành phi câu đồi
cổ ở đình khá phong phú, bức đại tự "Mỹ tục, khả phong" do vua Tự Đức
phong tặng cho làng Đồng Kỵ vào năm 1871 được treo ngay cửa đình. Trong đình, hầu
hết các hiện vật đều có niên đại thời Lê và Nguyễn bao gồm: Kiệu bát cống,
hương án gỗ, hạc gỗ, nồi hương gốm sứ, đỉnh đồng , bộ bát bửu, lọ độc bình… có
giá trị nghệ thuật thẩm mỹ cao.
Hồ nước phong thủy trước Đình
Cầu đá
Gian giữa của Tiền tế được trang trí chạm trổ cầu kỳ, sơn son thếp vàng rực rỡ, lộng lẫy…
2 quả pháo lớn bằng gỗ, hàng năm vào dịp hội làng (mùng 3 mùng 4 tháng Giêng) lại được dân làng rước tượng trưng cho phong tục đốt pháo xưa…
Khuôn viên đình còn lưu giữ được nhiều cây cổ thụ như: đa, đề, si, sưa…tạo cảnh quan yên bình, cổ kính, linh thiêng.
Chùa Đồng Kỵ có tên chữ là “Tây Am Tự” nằm liền kề với đình làng thành một quần thể di tích đẹp, hài hòa.
Cổng chùa vẫn giữ được nét cổ kính....
Ngôi chùa được dân làng khởi dựng từ lâu đời để thờ Phật và đã qua nhiều lần trùng tu tôn tạo, dấu ấn cổ còn lại là vào thời vua Khải Định. Chùa gồm nhiều công trình như: Gác chuông, Tam Bảo, Hậu đường, nhà Tổ, nhà Khách, vườn Tháp.
Tòa Tam bảo của chùa. Nơi đây từng là cơ sở hoạt động cách mạng quan trọng thời kỳ Tiền khởi nghĩa (1940-1945) của Tổng Bí thư Trường Chinh và các đồng chí Trung ương Đảng như Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng.
Ngày 09/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp Hội nghị mở rộng tại chùa Đồng Kỵ và ra bản Chỉ thị lịch sử “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”...
Cụm di tích lịch sử văn hóa đình, chùa Đồng Kỵ được chính quyền, nhân dân địa phương gìn giữ, phát huy qua thời gian, trở thành điểm du lịch tiêu biểu thu hút đông đảo du khách thập phương mỗi khi về với vùng quê Bắc Ninh - Kinh Bắc.
Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh