• Home
  • Site Map
  • Contact
  • Login
    • Register
  • Subscribe
Side Logo

Travel News

Trang tin du lịch

  • Home
  • Tin tức - Sự kiện
    • Thống kê du lịch
    • Chuyện lạ
  • Dịch vụ du lịch
    • Khám phá
    • Ẩm thực
    • Người Du lịch
    • Dự án đầu tư Du lịch
  • Visa, hộ chiếu
  • Thông tin cần biết
    • Đến Việt Nam
    • Tại Việt Nam
    • Giao thông
    • Thông tin khác
  • Văn Hóa
    • Giá trị lịch sử
    • Ngôn ngữ văn học
    • Lễ hội, trò chơi dân gian
    • Nghệ thuật biểu diễn
    • Trang phục
    • Kiến trúc, mỹ thuật
    • Món ăn, hoa, trái
    • Chợ Việt Nam
    • Phong tục tập quán
    • Tín ngưỡng - Tâm linh
    • Tết Việt Nam
  • Kinh nghiệm du lịch
  • Nhìn ra thế giới
  • Doanh nghiệp du lịch
Văn hóaGiá trị lịch sử
  • UKEnglish

Giá trị lịch sử

Danh tướng Tam Nương - Tả đạo tướng quân

Tam Nương (Tả đạo tướng quân), gồm ba chị em Đạm Nương, Hồng Nương và Thanh Nương khởi nghĩa ở Quất Lưu, Bình Xuyên (Vĩnh Phúc), Đạm Nương được phong làm Tả đạo tướng quân, còn Hồng Nương và Thanh Nương làm phó tướng.

Tiếng trống hội làng rộn rã cất lên từ lúc gà gáy sớm. Mặt trời chưa thức giấc, nhà nào nhà nấy đã đỏ lửa nấu cơm nước. Tiếng các cô gái ríu rít hỏi nhau gọi nhau và tiếng trẻ khóc đòi đi hội.

Hội Quất Lưu năm nay mở đúng mười ngày vào dịp đầu xuân. Làng vui vào hội, và tiếng hội vật Quất Lưu đã vang khắp các vùng thu hút hàng ngàn con người. Hàng trăm đô vật đã tìm về Quất Lưu để thi tài, " vuốt giải ".

Hội vật Quất Lưu do ba chị em : Đạm Nương, Hồng Nương và Thanh Nương đứng ra tổ chức với mục đích quan trọng : kết giao hào kiệt, lựa chọn người tài để cầm quân khởi nghĩa.

Những người đến dự hội này mang nhiều mục đích khác nhau. Có người đến chỉ cốt nhìn mặt Tam nương nổi danh hùng kiệt, con quan huyện lệnh họ Lê, trấn nhậm Tam Dương ân đức nhuần thấm tới trăm họ trong quận hạt. Cũng có người đến để nghe ngóng tình hình.

Từ khi Tam nương cầm quyền thay cha, đã đuổi hết các đồn Hán đóng trong xứ, cự tuyệt với Phủ thái thú.

Người em trai út là An Bình Lý ngày đêm luyện tập sĩ tốt còn nàng cả Đạm Nương trực tiếp nắm quân quyền, quản lý mọi việc trong châu quận. Trong số những người về dự hội cũng có nhiều tay tuấn kiệt muốn nhân dịp này ứng nghĩa với tam nương.

...Cờ đuôi nheo, cờ vuông múa lượn theo chiều gió, chiêng trống vang lừng. Các cô gái má đỏ hồng, môi ướt trầu tươi thắm, yếm đỏ yếm vàng, thắt lưng hoa lý, nguyệt bạch, cánh sen, bá vai nhau cười cười nói nói. Trai các làng lượn chỗ này chỗ khác, vui cười chào hỏi, cất lời cợt ghẹo các cô gái xinh tươi. Các cụ già chống gậy càng cua, nhai trầu bỏm bẻm.

Ba hồi trống chiêng cất lên uy nghi dõng dạc. Tam nương dã xuất hiện, ngồi nghiêm trang trên sập. Sập nhất, che tàn màu vàng đỏ là Nàng cả Đạm nương, áo màu nguyệt bạch, khuôn mặt đều đặn, đôi mắt đen láy.

Nàng hai Hồng nương và nàng ba Thanh nương cùng sánh vai ngồi sập thứ hai che tàn xanh. Nàng hai mặc áo hồng, nàng Ba áo xanh. Cả hai đều có nét mặt tươi tắn. Hai bên sập có các cô gái cầm gươm trần, giáo buộc ngù đỏ, cầm hộp trầu đứng vây quanh.

Mọi người xô đẩy nhau để được xem mặt Tam nương.

Các võ sĩ cầm ngang gậy tre dẹp đám.

Tiếng loa hô vang nhắc nhủ mọi người không được chen lấn và báo cho biết hội làng đã bắt đầu. Tam nương truyền các hói vật ai dự giải thì tiến vào trường đấu.

Trường đấu là một khoảng đất rộng có đóng gióng tre xung quanh, bốn góc cắm bốn lá cờ đuôi nheo, lối vào cắm cờ, kết lá. Các hói vật từ từ bước vào cửa đấu trường, đến ngồi xếp bằng tròn trên nền cỏ, trên chiếu có bày ấm nước sành, bát sành và vài đĩa trầu.

Các hói vật trẻ có, đứng tuổi có, ai nấy đều cởi trần, đóng khố bỏ vạt đằng trước bằng sồi, bằng nái nhuộm các màu đen, lục, đỏ, vàng. Các hói vật dự đấu ngồi nghiêm chỉnh, mắt nhìn thẳng phía trước. Một vài người nhặt miếng trầu. Ấm nước chè tươi nóng không ai đụng đến.

Lại một hồi trống cái cất lên. Những người vào dự đấu đứng cả dậy, quay mặt về phía tam nương vái ba vái. Một cụ chủ tế tiến đến trước nhang án, làm lễ xin âm dương rồi gõ liên hồi vào một chiếc kẻng con.

Thế là trống chiêng lại nổi lên ồn ã, tiếng loa cũng cất lên, nhắc lại lời nàng Cả miễn lễ cho các hói vật, và nhắc còn ai dự đấu mời vào, cuộc đấu sắp bắt đầu. Bấy giờ có hai người khiêng một chiếc trống lớn vào bãi vật, đặt cạnh chỗ các hói vật ngồi, và một người trạc bốn mươi tuổi chít khăn xéo màu hạt điều, áo đen dài, thắt lưng quan lục, ngồi vào ghế cầm dùi gõ thử mấy tiếng vào mặt trống.

Trống cất ba tiếng đĩnh đạc là các hói được lệnh nghỉ, hết một hiệp đấu. Hai tiếng trống mạnh kèm một tiếng cắc là báo hiệu kết thúc trận đấu, đã có người thắng, kẻ thua.

...Cả buổi sáng mới xong ba cặp vật. Người giữ giải sáng nay là một chàng tuổi mới ngoài đôi mươi, người cao và dẻo như một cây táu, da ngăm đen, mắt to. Chàng đã dùng miếng " vồ giả " để lừa đối thủ và đã thắng bằng một miếng hiểm : hất mông vào sườn đối phương mà quật ngửa ra ! Tuy vậy, mọi người đều biết rằng những tay sừng sỏ còn chưa xuất đầu lộ diện. Họ còn nghe ngóng lẫn nhau và xem cuộc đấu diễn ra trước mắt như xem cuộc biểu diễn của đám học trò hăng hái.

Buổi chiều, tế lễ, chạy cờ.

Từ ngày thứ ba trở đi cuộc đấu đã sôi nổi quyết liệt. Một dũng sĩ khoảng ba mươi tuổi, ngực xăm một chiếc đầu hổ nhe nanh dữ tợn, trong một buổi sáng hạ luôn năm đối thủ. Nhiều miếng vật của chàng đã được Hai Lý gõ trống tán thưởng. Đinh Quang tên người dũng sĩ giữ được giải tới chiều thì bị hạ. Chàng múa bái tổ rồi đi lại vẻ kiêu căng, thách thức. Chính cái bộ dạng ấy đã làm cho một hói vật đứng tuổi thấy phải ra tay cho chàng kia một bài học.

Đó, Lê Đạt ở Ngoại Xá thượng mà làng vật đều biết tiếng ! Người bé nhỏ, mắt lừ lừ. Lê Đạt múa xong bài bái tổ bèn quay về phía Tam nương vái chào một vái. Mọi người xem đều reo lên : " Đáng giải rồi, đáng giải rồi !".

Lê Đạt và Đinh Quang vờn nhau rồi nhanh như cắt bốn cánh tay khóa lấy nhau. Hổ báo quần nhau cũng không dữ hơn, loan phượng vờn nhau cũng không đẹp hơn ! Tới hiệp hai, Lê Đạt lừa miếng, bắt ngay chân Đinh Quang, quay mình một vòng, ném Đinh Quang ra ngoài gióng, rơi phịch ngay dưới chân mấy cô gái đứng đó. Cả ngày hôm đó, không ai địch nổi Lê Đạt.

Sáng Hôm sau, nàng Cả truyền cho Lê Đạt đứng riêng đợi vào đấu lọc cuối cùng. Buổi sáng có Phạm Lan ở Trung Xá giữ giải. Buổi chiều vừa vào cuộc đấu có Đỗ Khả ở Lũng Nội hạ Phạm Lan bằng một miếng độc thủ : bóc nang. Bàn tay như sắt của Đỗ Khả bóp miếng thịt sườn, dưới nách rồi vuốt ngược về phía bả vai địch thủ. Phạm Lan nếu không được thầy giỏi, thuốc hay sẽ suốt đời mang tật.

Phạm Lan ở Trung xá lại là học trò yêu của Dương Đình người ở làng Sổ, ngay cạnh Quất Lưu. Từ ngày hội vật thứ hai trở đi, Dương Đình ở nhà đi cày. Buổi sáng ấy, Dương Đình đang cày, có người chạy đến báo Phạm Lan bị miếng bóc nang nằm chết ngất. Dương Đình nổi giận, bèn trói ngay bò lại, cõng trên vai rảo bước về nhà, thay quần áo, đóng khố đen đến hội vật.

Đỗ Khả là một hói vật nổi danh thường đã vuốt giải là được. Chàng có thể nằm ngửa xếp 4 cối đá lên bụng, vẫn hất dậy được. Vợ Đỗ Khả bị một viên đầu mục người Hán hãm hiếp, Đỗ Khả hai tay quật chết viên đầu mục rồi lẫn trốn nay đây mai đó, tới huyện tam Dương thì ở lại. Nay nghe tam nương mở hội vật Đỗ Khả đến dự đấu mong có dịp tiến thân, vừa đền nợ nước vừa rửa thù nhà.

Dương Đình đến, trừng mắt nhìn Đỗ Khả một lúc, rồi vào nói với Hai Lý xin dự đấu. Hai Lý biết Dương Đình, nói rằng : " Đỗ Khả là người tài tuấn lại có chí, ông chớ vì học trò mà sát hại hắn ". Dương Đình gật đầu, vào đấu với Đỗ Khả.

Hai người đấu với nhau ba hiệp không phân thắng bại. Người nhanh như báo, kẻ vững như thành, lúc khóa chân lúc xốc nách, miếng khèo, miếng vét, miếng hụt, miếng gồng, ngực chạm ngực như núi xô, tay khóa tay như rắn cuốn. Mọi người đều nín thở mà xem.

Trong hiệp thứ ba, cuộc vật đang lúc quyết liệt, hai người đều có chí sống mái. Hai Lý gõ ba tiếng trống cho lệnh nghỉ rồi thưa với tam nương rằng : " Hai người này đều là tuấn kiệt ở đời, không nên để một người nào bị hại ! Tôi xem Đỗ Khả khó địch nổi Dương Đình vì Dương Đình mang chí trả thù cho học trò yêu. Xin tam nương định liệu ! ". Đạm nương bèn truyền gọi cả hai đến trước mặt, trao cho mỗi người một tấm lụa điều, cổ vũ cả hai, rồi cho đứng cùng hàng với Lê Đạt.

Bấy giờ có một người rẽ đám đông, xăm xăm bước thẳng tới trước sập tam nương nói to lên rằng : " Để lại cả ba tấm lụa điều ấy cho ta ! ". Nói đoạn, người ấy vái tam nương một vái, tự xưng là Ngô Hào ở xứ Thượng Hồng xin đấu, và nói rằng : " Học trò của Dương Đình bị đánh vào chỗ hiểm thành tật, nhưng tôi có thể chữa được. Chỉ xin đấu với Dương Đình cho biết tài cao thấp mà thôi ! ".

Lê Đạt xin ra đấu với Ngô Hào. Dương Đình cũng xin đấu. Đạm nương liền bảo Lê Đạt ra vật. Đấu nhau ba hiệp, Ngô Hào giật chân Lê Đạt. Lê Đạt ngã sấp xuống, bèn kéo Ngô Hào theo, cả hai lại ôm nhau mà lăn trên bãi, cùng khóa tay nhau không ai gỡ ra được. Hai Lý mãi xem quên cả trống, tay cầm dùi giơ cao mà không gõ một dùi nào. Ngô Hào vật được Lê Đạt nằm ngửa ra, một tay giữ nách, một tay vỗ bụng Ngô Hào tiếng reo hò vang lên như sấm khắp cả bãi vật.

Mười ngày hội qua, Đạm nương biên thư cho chồng là Tuấn công hiện ở Mê Linh, mời về bàn việc khởi nghĩa. Tuấn công là em vợ của Trưng lạc tướng ở Mê Linh, mà Trưng lạc tướng lại là người sinh ra hai chị em Trưng Trắc, Trưng nhị. Lúc ấy hai nàng Trưng đã chuẩn bị khởi nghĩa, tình thế sôi sục. Được tin Đạm nương, Tuấn công không thể về Tam Dương được, mới cho người về báo tin dặn Đạm nương khởi nghĩa ngay.

Đạm nương được thư thấy nói các anh thư Thánh Thiên, Lê Chân, Bát Nạn đều đã dựng cờ, họp quân, Tô Định bận phát binh đánh dẹp, nhờ thế Tam Dương còn được yên, vậy phải gấp rút phất cao cờ nghĩa, hưởng ứng với các nơi sẵn sàng chống quân Tô Định.

Đạm nương được tin vào thưa với cha, xin ý kiến, rồi ra họp với em và các tướng, tự nhận là soái, đóng đại quân doanh ở Quất Lưu, đắp lũy đào hào, phong cho Thanh nương giữ Tả quân doanh đóng ở Vị xuyên, Hồng nương lĩnh ấn Hữu tướng quản quân, đóng hữu quân doanh ở Ngoại Trạch. Lại chia quân làm sáu trại, cắt đặt các đầu mục :

Trại nhất ở Trung Chinh giao cho Lê Đạt.

Trại hai ở Đông Bái giao cho Nguyễn Phương.

Trại ba ở Khả Lũng giao cho Đỗ Khả.

Trại bốn ở Sơn Tiêu giao cho Dương Đình.

Trại năm ở Sơn Phổ giao cho Ngô Hào.

Trại sáu ở Xuân Mai giao cho Đinh Quang.

Chủ soái truyền cho các doanh các trại đào giếng lớn lấy nước ăn. Mỗi trại đào một giếng, lại truyền làm nỏ vót tên, mỗi chiến sĩ phải có một chiếc nỏ, hai trăm mũi tên và một lưỡi mác.

Sĩ tốt buổi sáng cày ruộng, buổi chiều luyện tập. Các ngả đường vào Tam Dương, đều có trạm canh phòng. Mỗi trạm một trống báo truyền nhau. An Bình Lý đốc lĩnh quân cả sáu trại kiêm lĩnh ấn tiên phong. Cắt đặt xong đâu đấy, Đạm nương viết thư cho Tuấn công được biết Tô Định hai lần cất quân đánh Tam Dương đều bị thua.

Ngày mồng mười tháng giêng năm sau, Tuấn công từ Mê Linh về Tam Dương, đem lịnh của Trưng nữ chủ phong cho Đạm nương làm Tả đạo tướng quân, mang quân theo Trưng nữ chủ đuổi giặc. Đạm nương lên đường cùng Tuấn công, có Hồng nương và Thanh nương làm phó tướng, An Bình Lý giữ huyện Tam Dương.

Tam nương cùng Trưng nữ chủ tiến đánh Luy Lâu. Sau hơn nửa tháng Luy Lâu tan vỡ, Tô Định phải bỏ cả ấn tín, cạo râu tóc mà chạy trốn.

Sau ngày đại phá Luy Lâu, ba chị em Đạm nương được phép trở về Tam Dương. Nhân dân nô nức dắt trâu lợn, mang rượu và gạo đi đón đoàn quân chiến thắng. Đạm nương cho lệnh mở hội mừng công, hội lớn mở năm ngày với nhiều trò vui, nào đu tiên, ném cầu, nào đánh vật kéo co, đêm đêm lửa đuốc như sao, ngày ngày trống chiêng dậy đất.

Đạm nương lại cho mở cuộc thi làm bánh để thi tài khéo léo của các nữ binh. Bấy giờ nữ binh tháo nỏ buông giáo, cầm lấy cái chầy giã bột, cái rá vo gạo, họp nhau thi làm các thứ bánh bằng gạo nếp, tất cả mười bốn thứ, trong mỗi thứ lại chọn những chiếc ngon nhất làm lễ tế thần và trao thưởng cho người làm.

Hội bánh mừng công của Tam nương được các nữ binh nô nức hưởng ứng, làm tất cả mưòi bốn thứ bánh như sau :

- Bánh chưng nhưng đỗ xanh thịt lợn.
- Bánh chưng tày gói tròn hình ống.
- Bánh dày trắng.
- Bánh dày xoa đỗ xanh.
- Bánh dợm.
- Bánh ống, như bánh chưng tày trộn mật.
- Bánh mật như bánh dợm, trộn mật.
- Bánh mật, hình nhọn như sừng bò.
- Bánh nẳng trong như hổ phách màu vàng.
- Bánh phồng.
- Bángh rán mật.
- Bánh trôi.
- Bánh dùng.
- Bánh bột.

Bánh trôi do Đạm nương nghĩ ra ; bánh dùng do Hồng nương làm ra ; bánh bột do Thanh nương bày ra. Nhân dân cũng theo các nữ binh, làm đủ mười bốn thứ bánh để thi vui với nhau và ăn trong ngày hội. Gạo nếp chọn kỹ từng hạt, đỗ vào thuyền thúng mà vo, giã gạo chày đôi vào cối đá ; bắt bánh dày, đầu chày xoa mỡ, lót chiếu cói trên ván, mỗi ván hai người giã, hai người bắt bánh.

Làm bánh chưng tày, các cô thi mịn và dẻo, thi lá giữ được màu xanh, gân sống lá dong đặt sao cho vạch thẳng một đường cắt đôi chiếc bánh. Bánh ống là do nữ tuỳ tướng của Đạm nương nghĩ ra làm theo bánh chưng tày nhưng gạo có tẩm mật.

Các nữ binh và các gái làng thi tài khéo léo, vừa làm bánh vừa hát đối đáp với nhau. An Bình Lý lại cho nam binh đánh trống hát thi với nữ binh, treo giải bằng lụa, dân gọi là hát trống quân của quân tam nương, gọi tắt là " hát trống quân ".

Đạm nương rất vui, bảo các gái làng Quất Lư làm bún và kho cá đem đến thi. Đạm nương chấm và treo giải. Hội bánh từ đó thành tục lệ, cứ tới ngày mồng mười tháng giêng, Đạm nương lại cho mở hội, hội thế nào cũng phải có đấu vật và thi mười bốn thứ bánh.

...Quân Mã Viện hùng hổ tiến vào bờ cõi nước ta. Trưng Vương truyền lệnh các tướng giữ vững thành trì rồi mang đại quân đón đánh Mã Viện ở Lãng Bạc. Hai quân chọi nhau, sát khí mờ trời đất. Đánh ba ngày, Trưng Vương phải rút về Hát Môn. Tam nương vội đem quân ứng cứu, giao Tam Dương lại cho An Bình Lý.

Mã Viện chia quân đón đánh tam nương. Ba nàng cùng sáu vị đầu mục, áo giáp đỏ máu giặc, tả xung hữu đột, gươm chém giáo đâm, đánh suốt một ngày, kìm chân quân Mã Viện để Trưng Vương rút về Mê Linh.

Sau trận ấy, ba nàng trở lại Tam Dương chỉnh đốn quân mã, tháng mười lại đem đại quân tiến đánh Mã Viện một trận lớn bên sông Hồng để giải vây cho Cấm Khê, Mã Viện đánh quân tam nương tan vỡ, năm vị đầu mục đã chết, giáo vẫn cầm trong tay.

Còn lại Đỗ Khả bèn cởi trần, đi đất, quẳng bảo đao, hai tay không xông vào vật với tướng giặc, bóp chết một tướng, quật chết một tướng, chịu mười nhát giáo đâm, chết còn mở mắt trừng trừng, giặc đều khiếp hãi không tên nào dám đến gần.

Tam nương rút chạy về Quất Lưu. Phục Ba đuổi theo rất gấp. An Bình Lý đem hết dân binh ra cự nhau với giặc. Từ ngày mười tới ngày mười hai tháng mười một các cụ già và đàn bà trẻ con cũng đều cầm mác và gậy tre mà đánh giặc. Ngày mười một, Hồng nương và Thanh nương đều tử tiết.

Ngày mười hai, An Bình Lý bị tử thương, mất ngay trên lưng ngựa. Tới đêm, Đạm nương thấy quân tan tác, các em và các tướng đều đã mất cả, giặc vẫn vây kín và đổ thêm quân viện, biết việc lỡ rồi, ngửa cổ lên trời kêu to gọi Tuấn công ba lần, lại thầm khấn Trưng Vương, vái mấy cái rồi tuốt kiếm tự sát (1).

- Tam nương, Tuấn công và An Bình Lý đều được thờ ở đình Quất Lưu, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phú, các vị đầu mục cũng được thờ ở hạ ban.

Đình Quất Lưu có câu đối ghi lại công đức các anh hùng như sau :

" Hộ quốc tiêm cửu, tam noãn linh thần tam tác tướng.

Xả sinh thủ nghĩa, lục trùng dũng sĩ lục thành nhân "

(Giúp nước rửa thù, ba vị linh thần cũng sinh làm tướng. Quên mình giữ nghĩa, sáu trang tráng sĩ nay đã nên danh). Trên thượng ban có đôi câu đối :

" Trưng Vương tả tướng quân. Lê gia thứ phúc thần ".

Hội đình Quất Lưu được tổ chức vào ngày mười tháng giêng, lệ có đánh vật và thi mười bốn thứ bánh nếp, ngày mười hai tháng mười một tiệc kỵ nhật, tục hèm có bún và cá kho.

Theo những người cao tuổi, huyện Tam Dương trong truyện Tam nương gồm huyện Bình Xuyên và một phần đất đai các huyện Vĩnh Tường và Yên Lạc (Vĩnh Phú) ngày nay.

Đình Quất Lưu

Đã xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia theo quyết định số 460 – QĐ/BT ngày 18  tháng 3 năm 1996. 

 Đình Quất Lưu được tạo dựng từ thời Hậu Lê, thờ vợ chồng Đạm Xương, Tuấn Công và em trai bà Đạm Xương – ông An Bình Lý. Đây là những vị anh hùng đã tham gia cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đánh đuổi phong kiến Trung Quốc đem lại nền độc lập, tự do cho dân tộc. Để tỏ lòng biết ơn, nhân dân địa phương đã lập đền đình thờ tưởng niệm.

Đình Quất Lưu có qui mô kiến trúc vừa, được làm vào triều Hậu Lê thế kỉ XVII. Đình nằm trên khu đất thoáng đẹp, với địa danh dân gian gọi là núi Sơn Tiêu. Đình trông hướng Nam nhìn thẳng ra cánh đồng.

Đình xưa kia được xây dựng theo kiến trúc nội công ngoại quốc. Sau bao cuộc chiến tranh, hiện nay Đình chỉ còn trang trí theo kiểu chữ nhật gồm 5 gian với diện tích là 251m2. Kĩ thuật xây dựng theo kiểu vì kèo theo kiểu con rồng, tứ trụ lòng truyền, cột đôi cánh se, tạo cho dáng đình cao mà hóa thấp, tạo thành hình nấm vững chắc.

Đình được xây dựng với 6 hàng chân cột, gồm 48 cột, các chân cột đều có các tảng đá kê. Vật liệu xây dựng bằng gỗ lim, ngói mui, gạch nung chín, có lợp điểm ngói sang cầu, kết cấu bằng vôi vữa, trên nóc đắp bờ giữ tạo thành 4 góc. Nhìn chung, với kết cấu vật liệu vững chắc, kĩ thuật xây dựng cao, mộng sàm chặt khít. lực dồn hết vào đầu 48 cột tạo cho đình làng thêm chắc khỏe tồn tại hàng mấy trăm mấy trăm năm, thử thách với thời gian cho đến ngày nay.

Căn cứ vào kiến trúc nghệ thuật hiện tại của đình, như có 8 đầu rồng, có các lông mao đục chạm thành những hoàng đao móc hết về phía sau; trong 18 đầu bay, có 8 đầu bay có đục chạm các cụm có hình đao móc đặc biệt bộ cực võng thờ biểu hiện nghệ thuật thời Hậu Lê là chủ yếu, từ đó, khẳng định rằng Đình Quất Lưu được xây dựng vào thế kỉ XV dưới 300 năm.

Tính chất nổi bật của Đình Quất Lưu là điêu khắc nghệ thuật mang đậm kiến trúc của hai vương triều Hậu Lê và triều Nguyễn. Các nghệ nhân ở thế kỉ XV, XVIII, XIX và đầu thế kỉ XX, với bàn tay tinh sảo của mình, với kĩ thuật đục bóng chạm nổi, đục thùng, gắn ghép tinh vi thể hiện đề tài chủ đạo là đầu rồng, con rồng, tứ linh, cụm mây hoa lá.

Sự sắp xếp mang tính cân đối hài hòa, chấp hành luật đối xứng. Qua đó, phản ánh được tâm lí truyền thống của cư dân Đồng bằng Trung du Bắc Bộ cầu mong mưa thuận gió hòa, dân khang vật định – thể hiện đậm nét tín ngưỡng phồn hoa của người Việt Cổ.

Việc trang trí thể hiện tập trung vào gian giữa mà trọng điểm là võng đúc thượng cung. Nếu nhìn tổng thể nội thất của Đình thì các nghệ nhân đã tạo ra không gian có góc cạnh rõ nét, có giá trị thẩm mĩ cao. Các bức ván bưng với kĩ thuật đục bóng, chạm nổi, các nghệ nhân thời Nguyễn đã tạo hình các bức tranh gỗ nổi tuyệt đẹp, đối xứng nhau, đỡ từ và tứ linh, ví dụ như hai bức tranh khắc gỗ đối xứng nhau ở phía trong đình.

Mỗi bức có kích thước cao 6m50, mỗi bức được bố trí phần trên là phượng múa, phần dưới là lẩn chầu, bên cạnh là đục chạm mây nước hóa rồng. bức bên phải có đề 4 chữ nho “Phượng hoàng lai tướng” Bức bên trái đề 4 chữ “Kì lân xuất chiêu”. Chính diện của gác thượng cung là bộ cửa vàng gồm có ba cửa, trên cùng treo bức tranh sơn son, thếp vàng có khắc 4 chữ “hồng lạc phân thùy” làm ngôi đình tăng thêm vẻ trang nghiêm.

Hiện nay, Đình Quất Lưu còn giữ gìn được 12 hiện vật các loại có giá trị: chất liệu bằng gỗ (còn một mâm sơn son, thếp vàng; một án thờ đục chạm tứ linh); chất liệu bằng đồng có 1 bát hương ; chất liệu bằng sứ gồm một bát hương sứ; chất liệu đá còn hai con rùa bằng đá để học đứng lên trên…tiêu biểu là bộ Kiện văn được làm ở thời Hậu Lê, được sơn son thiếp vàng lộng lẫy, các đầu rồng được đục chạm trang nghiêm.

Nhìn chung, Đình Quất Lưu là một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc thời Hậu Lê và triều Nguyễn có giá trị văn hóa lịch sử, khoa học, nghệ thuật cần được bảo tồn và phát huy giá trị.

Đền Bà

Đền Bà hay còn gọi là đền Vị Thanh được xây dựng trên một khu đất cao, rộng và  thoáng đãng ven đầm Vạc, nay thuộc thôn Vị Thanh, xã Thanh Trù, thị xã Vĩnh Yên. Trước đền là mặt đầm rộng mênh mông, những tán cây rợp bóng trên mặt nước, những góc đao cong và mái ngói phủ đầy rêu phong ẩn hiện khiến ta dễ liên tưởng đến hình ảnh một bến nước, sân dình quen thuộc của làng Việt. Giữa bình yên của ruộng đồng và làng xóm, ngôi đền hiện lên thâm nghiêm, cổ kính. 

Tương truyền, có vị nữ tướng tài giỏi là Thanh Nương đã có công phò giúp Trưng Nữ Vương đánh giặc cứu nước, nhân dân cảm kích lập đền thờ và gọi là đền Bà.

 Ao tắm trâu trong lễ hội tế trâu

 Bài trí thờ tự tại Tiền tế. Theo cách bài trí này và có tới 4 Long Ngai thì đó có thể là nơi thờ cả ba vị danh tướng Tam nương

Đền Bà

  Đền được xây dựng vào thời Nguyễn, khoảng cuối thế kỷ XIX, gồm 3 toà kiến trúc bố cục thoe kiểu chữ  “công”: tiền tế 5 gian, hai mái bít đốc có cửa gỗ bức bàn, 1 gian ống và 3 gian hậu cung, có tạo gác lửng làm khám thờ thần. Kết cấu 6 bộ vì chồng rường giá chiêng, kỹ thuật mộng sàm đạt đến trình độ cao toàn đền có 32 cột gỗ chắc khỏe, chân cột kê đá chống ẩm và mối mọt. Bộ mái của tòa ống muống và hậu cung làm  theo kiểu chồng diêm và được lợp ngói mũi truyền thống.

  Ở đền Bà, những mảng chạm khắc tuy không nhiều nhưng đường nét chạm khắc lại khá sắc nét, điêu luyện. Chẳng hạn, những đầu dư những bức cốn đã được các nghệ nhân thời xưa tạo thành hình rồng ở những tư thế khác nhau(rồng uốn, rồng chầu mặt trời) rất sinh động. Chạm trổ ở đền Bà đã  góp phần tô điểm cho kiến trúc và tăng thêm vẻ uy nghiêm của chốn thần linh.

Đền còn có 4 bộ long ngai và các bức hoành phi, câu đối chữ Hán, là những cổ vật quý, được gia cố công phu, trang trí cầu kỳ. 

   Đặc biệt đền Bà còn lưu giữ được những giá trị văn hóa phi vật thể tiêu biểu, trong đó độc đáo nhất là lễ hội tế trâu diễn ra vào ngày 13, 14, 15/10 âm lịch. Hàng năm, ngay từ ngày đầu tiên của tháng 10 âm lịch, các công việc chuẩn bị cho tiệc tế trâu đã được tiến hành như: chọn trâu lễ, chọn người nuôi trâu lễ, làm chuồng nuôi trâu lễ và lập ban thờ bộ hạ...

Lễ hội tế trâu chính thức diễn ra từ trưa ngày 13 tháng 10 âm lịch với các nghi thức theo trình tự là: Lễ cáo, rước ban thờ bộ hạ, dẫn trâu ra sân đình. Đêm 13 tháng10 tổ chức tế ở đình làng rồi rước trâu ra đền.

Đoàn rước đi đầu là trâu lễ, người nuôi trâu trong trang phục quần áo đỏ, chạc trâu tết bằng dây đỏ, kiệu bát cống rồi kiệu quan bộ hạ, tiếp theo là các đội tế, phường bát âm, chiêng, trống, đi sau cùng là dân làng hồ hởi reo hò với hàng trăm bó đuốc tỏa sáng rực rỡ. Cuộc lễ được tiếp diễn ở đền với một loạt các nghi thức nữa: tắm trâu, làm lễ nghinh thánh, dắt trâu vào đền làm lễ hiến tế trâu. Phần hội còn tiếp diễn thêm với những trò chơi vui khỏe đến hết ngày 15 mới làm lễ tạ.  

   Lễ hội này phản ánh nét sinh hoạt tín ngưỡng đặc trưng của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước ở đồng bằng sông Hồng thể hiện thông qua nghi lễ tế trâu cầu mùa. Tới đền Bà vào mùa lễ hội, khách tham quan không chỉ có cơ hội chiêm ngưỡng cảnh quan thanh bình, đẹp đẽ của di tích mà còn được tham dự một trong những lễ hội nông nghiệp mang những giá trị văn hóa tiêu biểu của vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Theo vinhphuc.tourism.vn

Tổng hợp và biên tập Ths .Nguyễn Thy Nga

Trở về đầu trang
   Danh tướng Hai Bà Trưng Đạm nương Hồng nương Thanh Nương Vĩnh Phúc
0   Tổng số:

Các tin khác

  • Đình Thanh Sơn, thờ phụng Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát và Châu Lan Đại vương
  • Nghệ thuật kiến trúc đặc sắc của Đình đá Tiên Phong
  • Hà Nam: Đình Quan Phố đón nhận Bằng xếp hạng Di tích cấp quốc gia
  • Đình Quan Phố và những nét kiến trúc nghệ thuật độc đáo
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật
  • Di tích đền phủ Ninh Xá ở Nam Định nơi lưu giữ 28 đạo sắc phong
  • Đình Nghĩa Chỉ, Tiên Du, thờ phụng Phùng Hưng và hai vị thủy thần
  • Đình, nghè Mai Động, thờ phụng Đô úy Tam Trinh triều Nhị vua Hai Bà Trưng
  • Đình Tây Đằng – Bảo tàng nghệ thuật kiến trúc thế kỷ 16
  • Di tích phòng tuyến sông Như Nguyệt - Địa danh gắn với chiến thắng lịch sử chống quân Tống
  • 12345...>>

Tin đọc nhiều

  • Long An phát triển du lịch qua di tích lịch sử - văn hóa

    165
  • Quảng Nam: Tây Giang hướng đến phát triển du lịch xanh

    121
  • Hải Dương: Phường rối nước Thanh Hải được công nhận là điểm du lịch

    119
  • Chùa Dàn - Trí Quả tự, thờ phụng Đại Thánh Pháp Điện Phật

    113
  • Cung đường mới - động lực lớn cho phát triển du lịch hồ Ba Bể (Bắc Kạn)

    109

- Trang thông tin du lịch
- Email: didulich.net@gmail.com
 

© 2025 Trang thông tin du lịch